Tag Archives: Hà Trung Yên

Vạn Lý Tình

Vạn Lý Tình

Với tháng ngày dật dờ như bánh vụn
Sống thờ ơ làm một gã hình nhân
Ăn từng mẩu, mồm nhai như giẻ rách
Mặc thời gian, đi cho hết đường trần

Con thú hoang trái tim lành rướm máu
Một hoàng hôn ngồi liếm nỗi đau tê
Trong hang đá thế mà không cô độc
Mãi khắc nhân sinh, lụy nhỏ ê chề

Bình minh. Hoàng hôn đôi đầu đối diện
Cứ đi đây mà chẳng hiểu làm gì
Sau bao lần toan buông thân vào vực
Nhưng phiến lòng ghi lại chút tình si

Tôi tha thẩn giữa cung rừng, dặm suối
Gió biên thùy thổi lại ý sơ khai
Trên vai áo mảnh linh hồn nóng hổi
Mộc lan không thơm, nhìn khẽ thở dài

Tôi đã hiểu túi hình hài vô nghĩa
Còn chi đâu khi mấp mé thiên đường
Hay địa ngục cũng là nơi quen thuộc
Lâu đài kia thoát hóa bóng tà dương

Tôi kết bạn cùng hoa đào, lũ vượn
Trăng ôi trăng lấp lánh mộng bình yên
Khẽ cúi nhặt từng ngôi sao vừa rụng
Xâu treo lên cho sáng rực cửa thiền

Người có đến thăm tôi vườn ảo tưởng
Mười phân thân thành một khối vô ưu
Quên lý luận, trao nhau nguồn nghệ cảm
Dòng sông đời tha thiết sóng trường lưu

Ðời sơn dã biết khi nao trở lại
Như chinh phu đâu rõ được ngày về
Thủa bình trị có chim chuyền, gà gáy
Tôi say nằm bờ trúc cạnh chân đê

Xuân đang bay thương một vùng tiền kiếp
Tôi mỉm cười hiện thực giữa nhân sinh
Xin được nắm bàn tay cây tuổi nhỏ
Rồi hoan ca bài hát Vạn Lý Tình.

Hà Trung Yên

*

bài họa : 
Chứa Chan Tình

Chiều thoi thóp bóng hình xưa vỡ vụn
Mà lòng mình thương nhớ chẳng nguyên nhân
Có ai đó vá giùm manh áo rách
Bàn chân xưa phỏng mỏi gót phong trần?

Ai lại hát những lời ca rướm máu
Mùi phong sương mới nếm đã nghe tê
Chân vừa cất đã thấy lòng cô độc
Tiệc nhân gian chưa dự đã ê chề

Những đêm vắng ta cùng ta đối diện
Nửa kiếp sau chẳng hiểu sẽ còn gì?
Chẳng cần phải xô nhau vào đáy vực
Vẫn còn nguyên ngàn nổi thủa mê si.

Người nếu khóc lệ có tuôn thành suối
Cỏ cây rừng có hứng giọt sơ khai?
Có nghe giữa trái tim non nóng hổi
Chẳng vì sao vẳng lại tiếng than dài

Người hãy nói cho trọn câu tình nghĩa
Bụi thời gian khó lấp những con đường
Ta vẫn vẽ những nẻo về quen thuộc
Và đứng đây nỗi nhớ vượt trùng dương

Rừng thủa ấy đêm đêm dài tiếng vượn
Ta nhủ mình: thôi lòng hãy bình yên
Chuyện thua được coi như là lá rụng
Giữa phong ba nhắm mắt vẫn như thiền

Ta ngước mắt nhìn trời xanh cứ tưởng
Rào kẽm gai hoa nở đóa vô ưu.
Ta cứ tưởng trong bồi bồi xúc cảm
Chút ngô khoai chưa xóa vẻ phong lưu.

Bạn thừa biết có đi là có lại
Con chim khôn mỏi cánh vẫn bay về
Giữa trưa lạnh tại sao gà lại gáy?
Chút sương mờ vương vất dưới chân đê.

Ta dựng lại những tri âm tiền kiếp
Giữa cơn say quên cả lẽ phù sinh
Ta bỗng thấy lại ta ngày trẻ nhỏ
Tiếng võng ru buổi ấy chứa chan tình.

Huệ Thu

Viễn Trình

Viễn Trình

Mới sáng lòng ta vòng nhật nguyệt
Thì lên đường đợi nữa ai đâu!
Thân vươn tới vượt qua làn bụi
Dầu tạt mưa, sương chắn ướt đầu

Ta ném mũ khi ngời lửa hạ
Giữa trời đông khoác áo khinh cừu
Lá rừng vun đốt làm chăn đệm
Ðem tẩm hồn mình giữa hợp lưu

Gió ở tâm ta, buồn ở tóc
Hải tần ơi cát nổi sơn khê
Trung du có gợi vùng tao ngộ
Xin nhớ quên nhau một chữ về

Ta nhắc mùa thu thương nhánh trúc
Cơn say nào tắm rượu Hoàng Hoa?
Xé trang Bạch Tuyết ngày đông giá
Nhẹ thả thuyền mơ đến hải hà

Ta hỏi nương cao, chờ dã thú
Hỏi người sơn cước bản chiều thưa
Chia nhau hạt muối, thơm mùi nếp
Tiếng cồng đêm hội sắp bừng chưa?

Chợt thấy Trường Giang trào đợt lũ
Chiếc thuyền xô giạt, bão nghiêng vai
Hành tinh trơ đá hoen màu đất
Chuyển biến còn trong mối hận dài

Liên tưởng ngày xưa sầu bẻ liễu
Thơ chìm vó ngựa tiễn tri âm
Ðoản đình tàn tạ, xiêu hàng quán
Chẳng nhắp ly bôi nửa chén thầm

“Ði là chết trong lòng một ít”
Nhưng là đi thảo mộng giang hồ
Giới biên lẩn khuất niềm hy vọng
Hội ngộ bao giờ tại thủ đô?

Ta sẽ thăm nhiều miền tổ quốc
Thử tìm lý giải kiếp nhân sinh
Bước xuân mời gặp tình du khách
Rồi sẽ chung vui cuộc viễn trình…

Hà Trung Yên

*

bài họa: 
Chẳng Trách Người Xưa

Thung Lũng hoa vàng chiều đã xế,
Sông dài trời rộng biết về đâu?
Con chim mỏi cánh sao tìm tổ?
Mũ lạnh chưa che nỗi mái đầu.

Còn Xuân hay đã sang mùa Hạ?
Chén rượu ai xưa bán áo cừu
Lý Bạch vẫn còn trong nỗi nhớ
Còn trong Ðường, Tống vẻ phong lưu.

Còn giữa trang thơ Tương Tiến Tửu
Ðọc lên sảng khoái cả sơn khê
Cơn say giữa chợ Tràng An ngủ
Vua gọi, Người Thơ cũng chẳng về.

Ta vẫn còn trăng treo trước cửa
Sau nhà bát ngát một vườn hoa
Kim Sơn còn biển xanh lai láng
Chưa đủ quên con sóng Nhĩ hà

Nhớ ơi! Thủa trước trong rừng trúc
Lều cỏ từng đêm trước dậu thưa
Có kẻ gói trăng đầy vạt áo
Bạn hiền biết đã đến hay chưa?

Nhớ ơi! Từ cuối vườn dâu ấy,
Ðãy gấm chiều chiều lại vắt vai
Ai đã qua cầu về dối mẹ
Chẳng sao đêm lại cứ thêm dài.

Máy móc cướp dần ta buổi ấy
Còn trong trang sách chút dư âm
Ðêm đêm gối sách lòng man mác
Tưởng tự ngàn xưa tiếng gọi thầm.

Tưởng tự ngàn xưa người Phạm Lãi
Thuyền con một chiếc dạo sông hồ
Tây Thi câu chuyện tình thiên cổ
Ðẹp mãi Hương Bình đất Cố Ðô.

Chẳng trách người xưa nơi đất Trích
Tưới men cho hả kiếp phù sinh
Ngồi đây không có cơn mưa lớn
Vẫn nhớ làm sao cuộc hải trình.

Huệ Thu

Người Phụ Nữ Việt

Người Phụ Nữ Việt

Lên núi ta tìm cõi đất thơ
Bồi hồi nhớ lại thuở Âu Cơ
Năm mươi con gái mừng theo mẹ
Dựng nước Văn Lang mở cõi bờ

Sức yếu không run mình nữ giới
Tay măng vung giữa núi đồi cao
Gót chân son dẫm vùng gai nhọn
Dọn sạch thâm u để nắng vào

Dòng suối nghe tuôn hoài róc rách
Con sông kia chảy miết chân trời
Hồ Ba Bể, đỉnh Hoàng Liên ấy
Chứng kiến mồ hôi rỏ tuyệt vời

Chim hót thanh làm nên tiếng nói
Nghe âm vang Bách Việt thơm nồng
Cá cùng chim hợp thành dân tộc
Tiếng trống đồng loan báo chiến công

Ngày đêm tơ nõn rộn ràng dệt
Cô Tấm hôm nay đã mẹ hiền
Ðất tổ ai về chung tưởng niệm
Có hằng nghĩ đến chuyện Rồng Tiên?

Thần thoại những là người tứ đức
Tam tòng cho vẹn nghĩa tào khang
Anh thư nữ kiệt ngời trang sử
Nợ nước, thù nhà quyết trả xong

Chức năng phụ nữ tùy thời cuộc
Nhà bếp, gia đình rất đảm đang
Khi có giặc đàn bà cũng đánh
Hoàn cầu danh tiếng gái Nam Bang

Vài năm thế kỷ hai mươi hết
Ðứng đấu tranh giành mọi nữ quyền
Xắn tóc, giơ tay cùng tiến bước
Son môi, chì mắt xứng thuyền quyên

Hoài cảm giang sơn mùa cẩm tú
Diễm kiều sao chiếc áo biển lam
Xin coi hình tượng trang trinh hạnh
Ôi tự hào phụ nữ Việt Nam!

Hà Trung Yên

*

bài họa:
Bắc Trung Nam

Ta lại vì người lại họa thơ
Bỏ ngoài tất cả những mưu cơ.
Chỉ còn dòng lệ âm thầm cũ,
Sông mộng ngày xưa ngập mấy bờ

Ðã biết Hai Bà thanh kiếm sắc,
Biển chưa đủ rộng, núi chưa cao
Mỗi khi đọc lại trang hùng sử
Sữa ngọt ngàn xưa rót mãi vào

Rót những niềm tin vào tuổi trẻ
Ðể nghe gió lộng bốn phương trời
Ðể nghe tiếng thét trên sông Hát
Mà yếm khăn xưa vẫn tuyệt vời.

Chao ôi! Gái Việt ngàn muôn thủa
Hoa bưởi Quê Hương vị vẫn nồng
Lỡ một nước cờ ta dựng lại
Nếu chưa thất bại chẳng thành công.

Sao chưa về lại Tiền Giang thử
Lý Ngựa Ô nghe giọng hát hiền
Nghe tiếng ca dao trưa tĩnh mịch
Ngày xưa bà kể chuyện thần tiên

Cô Tấm, muôn đời còn Tấm Cám
Còn ân tình nặng nghĩa tao khang *
Còn người gái Việt quên son phấn
Món nợ non sông trả chửa xong.

Còn như vẳng lại từ quê mẹ
Tiếng võng lời ru gái đảm đang
Bỗng thấy Quê Hương ngàn dặm cách
Con đường xa lộ nối liên bang.

Thì ra đứng giữa trời Âu Mỹ
Chẳng đấu tranh vẫn có nữ quyền
Vẫn có ấm no. Duy chỉ thiếu,
Ðêm hè khắc khoải tiếng chim quyên.

Ta về, mai mốt ta về lại,
Mái rạ chiều hôm ngọn khói lam
Ta dạy cháu con yêu tiếng Việt
Nối liền khúc ruột Bắc Trung Nam

* tao khang:
tao khang chi thê bất khả hạ đường-
tao khang chi thê là người vợ tấm mẳn
(cơm tấm, gạo vụn nát)ý nói thủa hàn vi.

Huệ Thu

Nhóm Lửa

Nhóm Lửa

Ta sắp đi rồi! Ta phải đi
Khi trông khói xám bốc biên thùy
Ðã nghe hồi trống kinh kỳ dục
Những nét hờn căm bám khóe mi

Ngựa hý vang lừng run nhánh liễu
Cờ bay mây loạn.Rợp cờ bay…
Những tin hỏa tốc. Người di tản
Ôi nhịp trường chinh sẽ tỏ bày!

Trăm nhà đều ngỏ lời ly biệt
Hơi rượu còn vương vị lệ nhòa
Ừ nhỉ gươm cùn chưa kịp sắc
Tiễn làm gì chỉ tội nhành hoa

Quan với quân lên đường mỗi tối
Tàn dần ngọn đuốc mảnh trăng theo
Hùng ca xoáy miết vào tâm tưởng
Giấc ngủ sương rơi lạnh đỉnh đèo

Qua thiên sơn trập trùng sông réo
Lũng tây đầy rắn, vắt lan rừng
Vùng mất chân trời ung lá đổ
Mồ hôi bám nặng ở trên lưng

Cơm nắm, muối vừng… thèm cải đắng
Nhớ tay mẹ nấu giữa trưa hè
Giọng cha sang sảng thơ Ðường, Tống
Giờ mắt trừng lên ánh sắt se

Ta đi tô thắm niềm kiêu hãnh
Câu thét âm vàng động cánh dơi
Lịch sử ôm choàng vai chiến sĩ
Ngàn năm thây giặc rụng tơi bời

Quyết tìm hòn đá mài gươm bén
Chiến dịch ơi, xoi mòn tháng năm
Ðây các chàng trai cười thế hệ
Gọi người vui mộng, nuối xa xăm

Ðồng ngủ nằm co chân gác bụng
Dật dờ hơi ấm quý thương nhau
Nghiến răng chôn bạn không hề khóc
Chẳng nói gì hơn một nỗi đau

Ta đi tình tự cùng non nước
Buổi về vá lại áo ngày xưa
Chàng thương binh náu đời thôn cũ
Nhóm lửa thanh bình mặc gió mưa…

Hà Trung Yên

*

Huệ Thu họa:
Quê Mẹ Từ Ngày…

Quê mẹ từ ngày trở bước đi
Ở đâu mà chẳng lại biên thùy?
Con sông nào nước hai dòng chảy?
Lá liễu nào cong một nét mi?

Chiều xuống còn ai nương bóng liễu
Ðứng bên rèm trúc tóc vờn bay
Còn ai hâm nóng buồn năm cũ
Cờ xóa chưa xong đã vội bày.

Chao ôi cuối Tháng Tư năm ấy,
Tưởng mắt này khô, lệ vẫn nhòa!
Tưởng gặp gió mưa trên đất lạ
Lạ chưa! Thung lũng vẫn đầy hoa.

Ta đi mà biết ai tâm sự
Chỉ gió đêm ngày vẫn đuổi theo
Chỉ có vầng trăng gầy mấy độ
Ðêm nay còn chút sáng lưng đèo.

Buổi ấy Biển Ðông gào phẩn nộ
Không dưng ai đó chạy lên rừng!
Có đâu làm kẻ tiều phu trước
Lạnh cắt làn da, nắng cháy lưng.

Buổi ấy nhọc nhằn sao kể hết
Bốn mùa chỉ nhớ một mùa hè
Trăm phương chỉ nhớ phương quê mẹ
Nỗi nhớ lòng ơi đã sắt se.

Bạn ta lưu lạc giờ đâu cả ?
Chập choạng như là những bóng dơi
Chợt vẳng nghe câu hò “Cố lý”
Chiều nay sao gió thổi bời bời

Chiều nay ta giận cho ngòi bút
Lần lữa mà rồi mấy chục năm!
Còn có gì vui nơi đất tạm
Ðường về Tổ Quốc vẫn xa xăm.

Hãy đốt giùm nhau muôn ngọn đuốc
Mừng rằng ta lại vẫn còn nhau
Còn niềm tin tưởng bao năm đó
Không lẽ vùi trong mối hận đau.

Nhóm lửa tin yêu ta hẹn gặp
Sài Gòn, Hà Nội, xóm làng xưa
Bạn bè dù có đầu phơ bạc
Cũng vẫn cười trong buổi bão mưa…

Huệ Thu

Khi Nào Em Nhớ

Khi Nào Em Nhớ

Gió ngàn thổi tóc Hắc Long Giang
Một dải huyền mơ cuốn dịu dàng
Tóc đã thề chưa? Ai vuốt nhẹ?
Sông Ðà êm chảy lối đài trang

Biếc xanh đôi mắt Ðộng Ðình Hồ
Soi thấy tâm tình sóng cuộn xô
Có nhẽ thân chìm trong ảo giác
Khẽ dìu dắt tới cõi hư vô

Xếp đều rất thẳng hai hàm răng
Ánh tỏ đêm rằm, bát ngát trăng
Ngọc Mỵ Châu bừng trang cổ tích
Nụ cười Bao Tự có buồn chăng?

Bàn tay măng trẻ dáng Trường Sơn
Ôm gọn, hành tinh, dãy núi rờn
Gối ngả mềm thơm không mộng mị
Tôi cầm tay hỏi hết cô đơn

Gót nhỏ son hồng sen Tịnh Tâm
Nhẹ hơn sương khói bước hương trầm
Chừng như mặt đất nâng niu mãi
Dương Thái Chân bỗng khóc âm thầm

Em là tiên nữ, chẳng là người
Thích đến trần gian dạo mát chơi
Bất ngờ tôi gặp. Em không kịp
Chắp cánh lên trời, vút viễn khơi

Ở lại cùng tôi, yêu mến nhau
Nhẹ nhàng em hát nối xưa sau
Em quay tơ dệt thơ tà áo
Từ đấy cuộc đời hết khổ đau

Bỗng dứt tình yêu một sớm Xuân
Em bay vĩnh biệt cõi dương trần
Dải Ngân Hà chính là sông lệ
Thực trở thành mơ, vắng ái ân

Ai chờ Tết đến, đón tân niên
Tôi chỉ nhìn mây trĩu muộn phiền
Hỏi có khi nào em nhớ tới
Một người yêu mãi chẳng hề quên?

Hà Trung Yên

*

Bài họa: 
Mây Trời Ai Thả

Mây trời ai thả giữa Trường Giang?
Mà tóc em xanh vẻ dịu dàng
Bỗng nhớ Ðường Thi, thơ mấy đoạn
Không dưng gió lật giở từng trang.

Con nước ngàn xưa sóng Ngũ Hồ
Tầm Dương lau lách tiếng lô xô.
Mùa Thu đã đến, hay chưa đến?
Gió ở mô về, gió tạt vô.

Tiếng gió buồn răng, biết nói răng?
Sông Hương nhớ mãi một vầng trăng.
Vầng trăng của thủa chưa son phấn
Ai dễ đền ai tuổi trẻ chăng?

Vẳng nghe tiếng thét cứu Giang Sơn,
Khóm lục bình trôi sóng rập rờn.
Những thẹn soi gương buồn má phấn,
Thương người cô phụ cảnh chăn đơn.

Ðời có gì hơn một chữ Tâm?
Nói chi đến những cuộc thăng trầm!
Có về Ðà Lạt đêm mưa ấy?
Ðọc lá thư xưa có khóc thầm?

Ở đây lưu lạc giữa quê người,
Thơ đã đầy chưa một cuộc chơi?
Thơ vẫn ướt theo dòng lệ cũ,
Ướt theo ngày ấy buổi ra khơi.

Ta vẫn còn nhau, vẫn có nhau,
Tấm lòng ai trước gửi ai sau.
Những khi ngoảnh lại mùa xuân cũ,
Dĩ vãng buồn như một nỗi đau.

Hoa đào còn đó sắc mùa Xuân,
Còn chúng ta đây giữa cõi trần,
Còn những canh khuya se sắt lạnh
Ðọc thơ còn tưởng chút thiên ân.

Tuy không còn nữa tuổi hoa niên,
Cũng chẳng vì đâu cứ não phiền.
Xin rót mời nhau ly rượu nhỏ,
Cái gì đã nhớ lại không quên?

Huệ Thu

Bến Cũ Đền Xưa

Bài xướng Hạ Thái Trần Quốc Phiệt

Bến Cũ Đền Xưa

Ánh nắng chiều rơi bóng đổ nghiêng
Lao xao sóng bạc vỗ ven triền
Đôi bờ cách bến sông bồi lở
Một vũng chung dòng nước xoáy xiên
Nền cũ cây đa trơ trốc gốc
Đền hoang tượng đá vội sang biên(*)
“Ngàn năm guơng cũ soi kim cổ” (**)
Ngẫm nghĩ mà đau cảnh nhãn tiền!

Ca,USA:Mar 17-2012

(*) Quê tôi ở làng nọ nơi bến sông dưới cây cổ thụ có ngôi đền
thờ 2 pho tượng 1 ông 1 bà, sau 75 bỗng dưng biến mất. (viết theo lời kể của tiền bối Nguyễn Lương Tài, nhà nghiên cứu di tích địa phương Quảng Trị.

(**) Thơ Bà Huyện Thanh Quan

*

Bài họa Nguyễn-Phú-Long

Thăm Quê Cũ

Bóng ngả, chiều rồi, bóng chiếu nghiêng
Đường về sông núi cỏ hai triền
Mái tranh vẫn đẹp làn mây phủ
Cây cối còn vui giải nắng xiên
Quán nước cuối thôn chờ khắc khoải
Bến xe đầu xóm nhớ vô biên
Láng giềng chẳng ngóng bên hàng dậu
Bè bạn nào ai đón cổng tiền.

*

Bài họa nguyễn vô cùng

Dấu Xưa

Đôi khi từng sợi nắng chiều nghiêng
Cũng vướng chân ai tận cuối triền
Nhớ đụn rơm vàng hơi khói tỏa
Thương dòng suối bạc ánh trăng xiên
Đầy trời gió cuộn, chim lìa tổ
Kín nẻo mây vần, cỏ lấn biên
Bến cộ con đò phiên chợ vắng
Tìm đâu nét cũ buổi kim tiền

*

Bài họa Phùng Trần – Trần Quế Sơn

Y Đề

Đình làng mây khói bóng tà nghiêng
Lãng đãng sương lay động bãi triền
Bến nước sông chau hờn sắc lạnh
Đò chiều mái gỏ lách gành xiên
Đền xưa Nam,Nữ không còn Tượng
Nếp mới “quan,thầy” chẳng có biên
Cám cảnh đau lòng thương đất mẹ
Buồn cho thế thái buổi kim tiền.

(Illinois; Mar-18-2012)

*

Bài họa Hồ Trọng Trí

Ngẫm

Thế tình chao đão giới đồ nghiêng.
Đóng cọc bao nhiêu vững núi triền.
Phía mạnh ưu phần giành thế đứng.
Bên non lép vế nhận phương xiên.
Hiện tiền xu thế đang tăng tiến.
Mai hậu vận hành ắt lấn biên.
Dựng nước tiền nhân bao cống hiến.
Hậu sinh tối mắt bởi kim tiền.

*

Bài họa motthoi

Hoài Cảm

Nương vận

Đường về cố quận dốc chênh nghiêng
Xơ xác phi lao rũ dưới triền
Dạo ấy thông già còn đứng thẳng
Bây chừ cổ thụ đã nằm xiên
Mái chùa thủng nát ngay bên chái
Thành mộ xoi mòn sát cạnh biên
Dấu vết thời gian cay nghiệt quá
Nhớ thương bóng Mẹ thuở sinh tiền!!.

Jan. 21st. 2014

*

Bài họa Trương Văn Lũy

Về Thăm Quê Cũ

Cảnh vật bơ phờ, thấy ngửa nghiêng!
Mỗi năm mưa lũ – quét qua triền
Đời thường vất vả, không gian xảo
Lối sống hiền hòa, chẳng xỏ xiên
Hồn nước ngàn năm luôn sáng chói
Tình quê muôn thuở vẫn vô biên
Người trôi của mất còn mưa rét
Ngẫm lại mà thương- túi cạn tiền!

*

Bài họa Thái Quốc Mưu

Cảnh Vật
(Nương vận bài Bến Cũ Đền Xưa
của Hạ Thái Trần Quốc Phiệt)

I
Trời đổ về chiều bóng ngả nghiêng
Vực sâu thăm thẳm ở bên triền
Dưới vùng đất trũng cây chen chúc
Trên khoảnh gò cao cỏ xỏ xiên
Thẳng tắp một đường chia bốn mảnh
Ngoằn ngoèo lạch nước rẽ hai biên
Một sư, hai tiểu trong đêm vắng
Gõ mõ, gióng chuông trước điện tiền

II.
Dưới chiều chiếc bóng ngả nghiêng nghiêng
Thăm thẳm vực sâu ở dưới triền
Cỏ mọc chen trên gò nổi nổi
Hoa cài ở dưới cánh xiên xiên
Con đường thẳng tắp chia đôi mảnh
Lạch nước ngoằn ngoèo lượn mé biên
Hai tiểu, một sư nương cửa Phật
Công phu chuông mõ mái hiên tiền

Atlanta, 31, 2012

*

Bài họa Hà Trung Yên

Chẳng Mong
(Theo vần bài Bến Cũ Đền Xưa của
Nhà thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt)

Theo người thơ mãi bước say nghiêng
Dẫm nắng mà đi bóng lả triền
Rượu ngấm trong lời cơn gió giục
Gió ùa theo vận bước chân xiên
Bồi hồi ý nhớ vui bằng trắc
Thảng thốt tình thơ đẹp giới biên
Đi miết theo phương trời mộng tưởng
Trăm năm sáng tạo chẳng mong tiền

*

Bài họa Duy Trà

Bến Cũ Đền Xưa

Gốc đa chốn cũ đã nằm nghiêng
Vài cánh chim bay lạc dốc triền
Lác đác đầu ghềnh cây trụi lá
Lưa thưa cuối bãi đá mòn xiên
Sông buồn, bến vắng đò đưa khách
Tượng mất, đền mờ nét chữ biên
Cảnh ấy ai người không xót dạ
Tiếc cho công bộc bậc sinh tiền .

Oklahoma City

Apr.02.2012

Xem Hát Bội / Sân Khấu Làng Ta

Xem Hát Bội / Sân Khấu Làng Ta – Thơ Xướng hoạ Phan Đắc Lữ Và Sài Môn Chủ Nhân

10 Bài Xướng của Phan Đắc Lữ

– Rước Phường Tuồng

Đầu đình sân khấu dựng từ lâu
Đèn, đuốc, màn, phông rực rỡ màu
Trai gái rủ rê ngoài cổng trước
Trẻ già í ới mé vườn sau
Thanh niên nô nức nghênh phường hát
Bô lão lăng xăng rước trống chầu
Lam lũ quanh năm chờ lễ hội
Ngày xuân vơi bớt nỗi lo âu.

Tháng 7/2005

– Đào, Kép Diễn Tuồng

Cũng kép, cũng đào đủ các vai
Tuồng xưa, vở mới lẫn bi hài
Trên ngai hoàng đế ung dung ngự
Dưới trướng quan quân cúi lạy dài
Phủ chúa công thần cao võng lọng
Cung vua thái giám nặng cân đai
Hạ màn, chùi mặt trơ phường hát
Khán giả khen chê dậy khán đài.

(Hè 2005)

– Khoác Long Bào

Mang hia, đội mão, khoác long bào
Bỗng chốc thành Vua, sướng xiết bao!
Mỹ nữ xiêm y nơi thượng uyển
Cung phi ngà ngọc chốn lầu cao
Văn quan khẩu khí thời lơ láo
Võ tướng gươm đao buổi loạn trào
Lột hết long bào, hia, mão… dỏm
Hóa ra đào, kép – lại mầy tao.

Tháng 7/2005

– Quan Tham Nhũng

Không nghè, không cống cũng làm quan
Áo gấm, hài nhung thật rỡ ràng
Ích nước bỏ bê dân cực khổ
Lợi nhà vơ vét vợ giàu sang
Bệ rồng ton hót lời xu nịnh
Trướng phủ âm mưu chuyện trái ngang
Vận nước anh hùng còn lận đận
Chính trường đồ điếu giọng huênh hoang.

Tháng 8/2005

– Tướng Tá Tranh Hùng

Tùng tùng trống trận giục liên hồi
Quân sĩ hò reo nước lửa sôi
Một tướng lừng danh chưa định phận
Dăm tên tiểu tốt quyết tranh ngôi
Quần hồ liều mạng nghiêng phần thắng
Mãnh hổ cô thân khó địch rồi
Thế trận binh đao đang quyết liệt
Được, thua khán giả phải chờ thôi.

Tháng 8/2005

– Triều Chính

Đàn ca, sáo thổi khúc nghê thường
Vũ nữ xiêm y phảng phất hương
Thiên Tử đắm chìm trong khoái lạc
Trung quân can gián chết thê lương
Cung son Hoàng Hậu phơi nhan sắc
Triều chính gian thần loạn kỷ cương
Tấc đất biên thùy không giữ vẹn
Ngàn năm bia miệng ắt nêu gương.

– Hậu Cung

Trướng gấm, màn nhung rũ hậu cung
Từ đây quê kiễng cách nghìn trùng
Thứ Phi vò võ chăn đơn chiếc
Tỳ Nữ canh thâu gối lạnh lùng
Nghĩa mẹ, công cha chưa báo đáp
Tình duyên ân ái chẳng tương phùng
Lầu son vùi lấp thời xuân sắc
Cố lý vời trông bóng mịt mùng.

Tháng 9/2005)

– Vai Hề

Hát bội xem vui nhất chú hề
Áo the, khăn xếp vểnh râu dê
Nhạo đời lý sự chua như giấm
Xử thế văn hoa ngọt tựa chè
Vua chúa bất minh cười nhạo báng
Quan quyền nhũng lạm chửi ê chề
Chọc quê tài giỏi hơn cù lét
Khán giả cười ôm bụng hả hề.

– Lính Quèn

Áo sô, giày cỏ gốc dân đen
Phẩm trật vua ban cấp… lính quèn
Chiến địa phơi thây không kẻ nhớ
Quân trường luyện võ chẳng ai khen
Canh măng, cháo bẹ ăn nhàm bữa
Giáo mác, gươm đao múa đã quen
Đất nước bình yên hồi cố quán
Cầy sâu cuốc bẫm ruộng chua phèn.

(Tháng 9/2005)

10 – Vãn Chầu

Hát bội đêm xuân đã vãn chầu
Người về thao thức ngẫm mà đau
Nhất thời quan chức giàu sang mãi
Vạn đại dân đen khổ tiếp nhau
Phận sãi nhà chùa cam quét lá
Con vua dòng dõi nối ngôi cao
Tuồng xưa tích cũ thay đào kép
Vở mới chờ xem diễn thế nào?

Phan Đắc Lữ
(Tháng 9/2005)

*

10 Bài Họa của Hà Trung Yên

Còn Gì

Ta cũng mong ngày dựng túy lâu
Nhìn xuống thành xa rực rỡ mầu
Nâng chén còn mơ nhiều bạn cũ
Đời thơ nghe gọi những đời sau
Giục bao chim én về phương nhớ
Đánh những đường tơ gọi phượng chầu
Lay tĩnh mười năm vần lỡ dỏ
Còn gì bạch phát lẫn kim âu?

Ước Vọng

Xứ nọ thay tuồng lại đổi vai
Diễn bi sao lại biến ra hài?
Đường qua gặp bão sao mà ngắn
Lối hẹn vào thơ lại quá dài
Kìa nguyệt lạnh càng thêm khép cửa
Sao tinh buồn lại nỡ viền đai?
Ta nằm mơ những điều không thật
Ước vọng vần bay những hải đài.

Vắng Bóng

Nào ai một xót với gan bào
Xem những tuồng xưa thẹn biết bao!
Thanh thú vui đùa bao quán nhỏ
Mơ về mong ước những lần cao
Tìm thêm lý lẻ thời vong quốc
Hiểu hẫng nguyên nhân buổi loạn trào
Tai chi tri âm càng vắng bóng
Giang hồ rượu cúc uống vài tao.

Khấn Nguyện

Ta đã bồi hồi chuyện quá quan
Ai đâu nở buộc với đem ràng!
Triền non suối đón từng mong lại
Bến nước thuyền chờ sẽ cập sang
Mãi đợi buồn bao đời nối dọc
Cả cười lỡ một chuyến sang ngang
Đã đi chưa đến tình vương mắc
Khấn nguyện đời mình hết mộng hoang.

Bỗng Hiểu

Lịch Sử Nghiên Trong Cứ Phản Hồi
Người dân vùng dậy máu đang sôi
Nam Tào thưở ấy còn nghiêng bão
Bắc đẩu bao giờ sẽ đổi ngôi?
Nghìn ý thơ buồn trăng ngợp đó
Trăm năm ai biết mộng hư rồi
Giang sơn cẩm tú còn lưu luyến
Bỗng hiểu mơ nhiều chỉ vậy thôi!

Chung Thủy

Ta đi lơ đãng cõi vô thường
Sống mọn u hoài vọng cố hương
Lơ đãng con người quên trấn bão
Quẩn quanh cuộc sống níu đồng lương
Kìa trăng chiếu thủy soi nghiêng mộng
Này ngựa rong đời phi đứt cương
Chấp nhận u hoài nương bóng trúc
Tấm lòng chung thủy sáng như gương

Ước Chi

Đường đời xa tắp vượt bao cung?
Bỗng gạp nhau đây núi trập trùng
Tôi nhớ hồn nhiên càng thích thú
Bao mơ hạnh phúc cố săn lùng
Thiết tha đàn sáo ngày giao cảm
Lưu luyến văn thơ buổi hiệp phùng
Xa cách ta càng thêm quyến luyến
Ước chi lại được ngủ chung mùng.

Còn Cười

Vẫn khóc thầm thay mặt gã hề
Mơ làm Tô Vũ khoái chăn dê
Từng khuya tha thiết ôm hình mộng
Mỗi sáng hồn nhiên uống chén chè
Lưu luyến thư sinh mờ thế lỡ
Thản nhiên nhân cách thoáng môi chề
Đời là sân khấu cười gian ý
Màn khuất ta cười rất hả hê.

Tím Mặt

Đời ta hết đỏ bỗng nhiều đen
Mím chặt môi như một gã quèn
Buồn nghĩ người xưa không kẻ thích
Lở về quê cũ chẳng ai khen
Nghiên lòng mở ý lờ không biết
Cúi mặt vô tình gặp đếch quen
Co rúm ngày quê đành tím mặt
Hắt hiu kỷ niệm áo chua phèn.

Đưa Ta

Lâu lắm không nghe tiếng trống chầu
Trong niềm xa xứ nhớ mà đau
Mơ màng giữa phố không tìm ngõ
Lỡ dỡ trong đời chẳng gặp nhau
Đâu kẻ còn ôm lời giáng hạ
Nào ai từng vẽ mộng đăng cao
Về đây cùng rót bầu tâm sự
Âm nhạc đưa ta đến hạnh nào?

Hà Trung Yên

*

11 Bài Họa của Thái Quốc Mưu

Hai Cực Đông Tây

Ông to, quyền lớn chửa bao lâu,
Thế ấy mà nay nhuốm sắc màu
Chễm chệ xe trên nghênh mặt bự
Lăng xăng lũ dưới chạy đàng sau
Đường dài quan lớn cầm cu đái
Cả đám tay sai cất mũ chầu
Chỉ thị, lệnh ban cầm giấy rặn
Một trời một vực với trời Âu

Oct. 8, 2011

Hát Dở

Diễn tuồng đào kép chẳng ra vai
Múa võ, dương oai lại… tấu hài
Diễn xuất quân hầu quên hết ráo
Xua quân tướng tá lại than dài
Trên đường săn địch mà sa ngựa,
Giữa trận tranh tài cũng chỉnh đai
Vua ở ngôi cao ngồi bí xị
Công nương mà chẳng chút trang đài

Oct. 8, 2011

Hát Tuồng

(I)
Tướng tá ngông ngông mặc cẩm bào
Thoạt nhìn cứ ngỡ giấc chiêm bao
Mới đây thân phận lè tè thấp
Thoắt đó uy quyền ngất ngưởng cao
Quan chức lắm tiền xe lượn lách
Dân đen bé miệng lệ tuôn trào
Xưa nay những kẻ làm “công bộc”
Thường bảo: “Đừng hòng giỡn mặt tao!”

Oct. 8, 2011

(II)
Tướng tá ngông ngông mặc cẩm bào
Thoạt nhìn những tưởng giấc chiêm bao
Mới đây thân phận lè tè thấp
Thoắt cái uy quyền ngất ngưởng cao
Trước tựa quân vương thời lập quốc
Oai như thừa tướng buổi lâm trào
Cha sanh mẹ đẻ thành ra vậy,
Hay tại ngày xưa võng đứt tao?

Oct. 8, 2011

Quan Ôn

Dẫu là võ tướng, dẫu văn quan
Cốt tủy xưa nay thật rõ ràng
Ra ngõ miệng mồm luôn hách dịch
Trong nhà dáng vẻ tập cao sang
Học hành chữ nghĩa vừa dôn dốt
Đánh mất nhân tình mới ngổ ngang
Giữa chốn công đường hay quát tháo
Ngôn từ như những đứa con hoang.

Đào, Kép

Sau trước rồi thôi cũng vãn hồi
Tình còn chưa cạn lửa bừng sôi
Khi chưa tô mặt còn yêu mến
Lúc đã thành tuồng muốn đoạt ngôi
Cái miếng đỉnh chung thì nhớ mãi
Còn điều vinh nhục lại quên rồi…
Cho hay thế sự như tuồng hát!
Nhân nghĩa như là bọt nước thôi!

Oct. 8, 2011

Gánh Hát Tồi

Khua mõ, xưa nay cũng lẽ thường
Thói đời bất nghĩa khó thơm hương
Diễn không nên cách mà vênh mặt
Hát chẳng ra trò cũng nhận lương
Đàn trống lung tung nên nhịp trật
Tay chân lóng cóng lại ca cương
Đem chuông đi gióng nhè chuông bể
Bôi mặt soi mình chỉ ố gương

Oct. 8, 2011

Đào Kép Về Hưu

Thói thường hết thú bẻ tên, cung
Ơn đã không thông, oán trập trùng
Lão kép lòng già đành uất nghẹn
Mụ đào cơm áo phải săn lùng
Cái công hạng mã đem bôi bác
Hai tiếng thủy chung chẳng hội phùng
Đêm xuống trở mình nghe nhức nhối
Chiếu chăn không có, có đâu mùng!

Oct. 8, 2011

Biến Tướng

Giống như những kẻ đóng vai hề
Rửng mỡ đi tìm mãi dái dê
Mất sức nhập nhằng con mẹ đĩ
Sung gân xoắn xuýt bát xôi chè
Ông to đổi tính lời kênh kiệu
Gái đĩ hóa thân giọng chẫu chề
Trước rách tả tơi, giờ bội thực
Sớm hôm hí hửng hể hề hê!

Oct. 8, 2011

Quan, Dân

Ông lớn thừa tài đổi trắng đen
Chân quê chỉ có đám dân quèn
Tả tơi, khốn đốn thường dân chịu
“No ấm”, dối lừa bạo chúa khen
Thịt cá công thần chê chẳng ngó
Chân dài quan chức ủ nhàm quen
Nhà cao cửa rộng xênh xang đó
Cuốc bẫm, cày sâu phải bẩn phèn

Oct. 8, 2011

Lưới Trời

Kẻ ở ngôi trên, kẻ đứng chầu
Kẻ thì vui sướng, kẻ lòng đau
Khi thằng quan chức còn ôm lợi
Thì đám dân lành phải lụy nhau
Đã chẳng gieo nhân, gây ác lớn
Thì đành nhận quả bởi trời cao
Xưa nay ác, đức đà minh định
Cha ác, con vinh – Có lẽ nào?

Oct. 8, 2011
Thái Quốc Mưu

*

10 Bài Họa của Hạ Thái Trần Quốc Phiệt

Mượn Tuồng

E  chừng tuồng hát chẳng còn lâu
Xiêm áo giờ đây đã lạc màu
Đào kép lo toan gom bạc trước
Thầy tuồng mưu tính thọc dùi sau
Đám hề oang oác lòng vòng nịnh
Lũ dốt hung hăng lấc cấc chầu
Càng tiếp theo ông càng thụt hậu
Bản bài mau trả lại trời Âu !

Đời Hát Tuồng

Kép đào vài mống thủ nhiều vai
Đổi mặt, thay gươm, áo, mão, hài…
Vào lính còng lưng vung kiếm ngắn
Ra quan khệnh khạng múa thương dài
Lên vua trịnh trọng ngồi ngai báu
Xuống chốt hom hem thắt vệ đai
Tước vị phù du màn cũng hạ…
Không lên tiên cảnh, xuống âm đài.

Mặt Đời

Tô son trét phấn diện nhung bào
Cố dấu chân truyền mặt bánh bao
Giữa đám thần dân đè cổ thấp
Trong hàng quan cách nịnh vai cao
Huênh hoang dương mặt ngoài tiền sảnh
Khúm núm khom lưng lúc yết trào
Vai vế tuồng đời nề diễn xuất
Khi thì dạ dạ, lúc mày tao !

Quan Hát

Học hành dăm chữ cũng lên quan
Kèn trống rùm beng thật rộn ràng
Bản mặt thằng hề dân xóm bợm
Cái mông con sến xứ làng… sang
Vở tuồng giải phóng hay thành dở
Khúc hát canh tân thuận hóa ngang
Đợi đến vãn tuồng thật chán nản
Chìm vào giấc điệp mộng đi hoang !

Chạy Tuồng

Phường hát bơ bơ chẳng phản hồi
Dân oan chờ chực sốt lên sôi
Quan trên đủng đỉnh đeo thăng ghế
Thầy dưới lăm le bám thượng ngôi
Dẫu thỉnh dẫu cầu – câu đách biết
Mặc thưa mặc kiện – chuyện qua rồi
Quách Hòe sống dậy lắc đầu phán
Luật lệ rừng hoang phải vậy thôi . !

Nhạc Tuồng

Điệu nhạc nghe đâu quá khác thường
Vận theo gánh hát tội quê hương
Reo trong hồn nước lời thê thảm
Tản giữa hương trời tiếng lẹo lương
Gió lộng buồn hiu ngoài cõi ải
Mưa dầm lạnh ngắt chốn biên cương
Trăm năm một cuôc trần hư hỏng
Sao chẳng đem mình rọi lại gương .

Tuồng Gàn

Xem diễn tuồng đời chuyện kiếm cung
“Rừng vàng bể bạc”, ngất trùng trùng ?
Núi dài sông lớn đều quen biết
Biển rộng đảo xa chẳng lạ lùng
Sáng dậy Bắc ranh dời cột mốc
Chiều ra hải phận chắn biên phùng
Tình thân hữu hão đà tan biến
Bạn với quân gian chịu mịt mùng !    

Anh Hề

Khen chê “bố láo” có anh hề
Xỏ lá huyên thuyên dặm chút dê
Mũi hểnh, lời chua hơn hẳn khế
Môi cười, tiếng ngọt tựa như chè
Mắng quan vô độ đưa tay chỉ
Khiển chúa hoang dâm lệch miệng chề
Vào tuồng dạy dỗ điều luân lý
Ai kẻ đời thường ngẫm vậy hê  ? !

Tình Đời

Tắt đèn sân khấu lại hoàn đen
Lột bỏ mão hia  xuống lính quèn
Phấn sáp nhạt nhòa đâu phẩm luận ?
Chức quyền oai vệ đấy bình khen !
Ra đường chạm mặt như người lạ
Vào quán chung bàn chẳng kẻ quen
Ngớ ngẩn sự đời ôi gánh hát
Lửng lơ bèo dạt nước ao phèn !

Mong Vãn Tuồng

Hát dở mà quan lệnh phải chầu…
Tay thì gõ trống, nhịp tim đau
Đoạn lên lỗi điệu trêu vần với
Khúc xuống sai lời tréo vận nhau
Dân giả biết mình loài cổ thấp
Thầy tuồng rõ mặt thứ quan cao
Thôi thôi, chừng đó mong tuồng vãn
Dẹp được còn hơn sung sướng nào !

Oct-12-2011
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt

*

Đạt Nhân Họa 10 bài “Tuồng Hát Bội” của Phan Đắc Lữ

Ngọc Hoàng Thị Sát Giao Châu

1.- Vi Hành

Ta ngồi trên trướng đã bao lâu
Đôi mắt mờ đeo kiếng đủ màu
Đâu thấy lời hay trang sử trước
Nào hay ý đẹp lớp người sau
Vi hành bớt chuyện dân đưa đón
Thăm viếng giảm công lính chực chầu
Để biết nhân tình qua thế sự
Mà theo học hỏi nếp trời Âu

Orlando Dec 10.2005

2 – Mánh Mung

Tình nhà,nợ nước nặng hai vai
Hào kiệt ruổi dong lã gót hài
Quan lớn họp hành nghe lải nhải
Dân đen cặm cụi khổ dài dài
Người ranh khéo léo bu cơm áo
Kẻ nịnh cúi lòn bám phẩm đai
Ta chẳng biết dân đang khổ sở
Tham quan níu trụ cố leo đài

Orlando Dec 10.2005

3 – Bao Che Quyền Chức

Vi hành ta lén gặp đồng bào
Mới biết dân tình khổ biết bao
Không thế,không thân chen chỗ thấp
Có quyền,có chức chiếm ngôi cao
Trời lầm che chở phường buôn chúng
Đất lỡ bao dung lũ bám trào
Ta đến tận nơi đà thấy rõ
Loạn đời,loạn đạo,mất thanh tao

Orlando Dec 10.2005

4 – Coi Thường Thiên Hạ

Chỉ cần bằng dỏm để thăng quan
Bằng có,học không chuyện rõ ràng
Thuở trước thứ dân đi ở đợ
Bây giờ trưởng giả học làm sang
Bưng tai thiên hạ điều hư thật
Bịt mắt bàng dân chuyện trái ngang
Miệng rỗi,luật rừng,tay cướp cạn
Hồ đồ,hống hách lại huênh hoang

Orlando Dec 11.2005

5 – Chia Phần

Cục diện chiến tranh đã kết hồi
Buồn khi khói lửa buổi ngừng sôi
Tham gia kháng chiến lừng công trận
Tham nhũng hòa bình chiếm mất ngôi
Doanh trại, binh nhung chia chác ráo
Đất đai, quân tướng xí phần rồi
Xưng công chiến thắng giành phần thắng
Dân chúng bất bình cũng chịu thôi

Orlando Dec 11.2005

6 -Mị Người Đã Khuất

Hữu thường che lấp bóng vô thường
An ủi linh hồn chút khói hương
Kẻ chết chưa từng mong chức tước
Người còn tưởng đã trọn thiên lương
Dương gian e mất nền luân lý
Âm phủ chắc còn nếp kỷ cương
Gương chiếu là nhờ qua lớp mạ
Hãy nhìn ảnh thật trước sau gương

Orlando Dec 11.2005

7 – Đành Phải Ra Đi

Có kẻ đau lòng như cấm cung
Ra đi nửa ngại bước ngàn trùng
Khổ vì lạc lỏng xa xa lắc
Khốn nỗi bơ vơ lạ lạ lùng
Chớm gót những mong ngày hạnh ngộ
Dời chân chừng tưởng buổi tương phùng
Quê nhà như rứa đành xa cách
Biết đến nơi mô khỏi mịt mùng

Orlando Dec 12.2005

8 – Mặc Kệ Dân Nghèo

Lương bổng quan quân ấy mới hề
Đâu bằng Lý Bá lúc chăn dê
Trả công chưa đủ phần cơm áo
Bồi dưởng còn hơn mức rượu chè
Bằng cấp dư công thêm ngán ngẫm
Tài năng thiếu việc quá ê chề
Mặc ai đói khổ ,quan đừng khổ
Quyền lợi về ai,nấy hả hê

Orlando Dec 12.2005

9 – Lính Quèn Lên Mặt

Bần cùng thiên hạ đám dân đen
Vì sợ mà nghe chú lính quèn
Chuộc tội say sưa chuyên nịnh hót
Kiếm công tâng bốc được ban khen
Xem thường nhân nghĩa quen thành lạ
Coi trọng tiền tài lạ hóa quen
Nguồn cội chú còn quên tất cả
Cũng từ gốc rạ đất ngâm phèn

Orlando Dec 12.2005

10 – Hồi Triều

Trở lại thiên cung lệnh khởi chầu
Ngọc Hoàng thị sát thêm lòng đau
Quan quyền Lạc Việt chia phần sẳn
Chức tước Giao Châu phân vị nhau
Ai kẻ ngoài vòng chen dưới thấp
Ấy người trong cuộc nhấc trên cao
Chỉ lo giữ ghế quên dân tộc
Nô lệ ngàn năm chữa thấy nào ?

Orlando Dec 12
Đạt Nhân

Chứng Nhân

Thái Quốc Mưu họa bài  Vô Biên :: Hà Trung Yên

Chứng Nhân

Chúng ta vẫn còn đây!
Chứng nhân giống dòng Hồng Lạc.
Khắp năm châu quê người tản mác.
Như lá thu vàng lác đác chao rơi
Dạt trôi, trôi dạt bốn phương trời!

Bao tháng năm dài trĩu trịt hồn quê.
Đêm đêm vang vọng câu thề,
Một đời vong quốc bao tê tái lòng!
Ngập đầy bao nỗi sầu mong,
Nấu nung niềm nhớ, hun xông cõi buồn.

Những chiều se sắt bóng hoàng hôn,
Nhấp chén đắng, nghe cay đời tản lạc!

Ta ngất ngưởng uống cạn bầu nầy sang bầu khác.
Để quên đời, tìm lại chút niềm tin,
Ta nhướng to đôi mắt để nhìn,
Chuyện tình nghĩa, thịt da trên đất lạ.
Hoa chẳng thấy! – Đời chỉ trơ cuống lá!

Những điều còn lại hôm nay,
Phải chăng mây bạc cuối trời gió bay?

Rượu nồng cạn chén cùng say.
Tấm thân lạc xứ – Thảm nầy… “Ôi thôi!”
Lời hoa tô chuốt đầu môi,
Câu nhân nghĩa cũng nhằm khơi ý đồ.
Tha hồ giành giật đẩy xô.
Đánh rơi, bỏ hết cội, bờ ngàn xưa!
Cái tình ấm lạnh nắng mưa,
Rẻ rúng như bọt bèo rơm, cỏ.
Ai ngán ngẩm mặn nồng cơn sóng, gió.
Ta điên cuồng say đắm mấy vần thơ,
Mong sao đời tươi đẹp như mơ!

Sống nơi đất khách chẳng khác nào mê lộ.
Ở tạm quê người biết bao điều kỳ ngộ!
Đời xuống lên lắm kẻ chuốt tô hồng.
Chuyện vá trời, dời núi, lấp biển, sông.
Từ những kẻ mới thay lông, lột  xác.
Khi thân vừa vuột “mác” (made) phổ ky.
Bỏ cội nguồn, cả dĩ vãng ngoảnh đi.
Rống cao giọng chuyện trên trời, dưới đất.

Thế giới mênh mông
– Lòng kẻ vong thân: “Hẹp, chật!”
Xót xa đời – Ta cất tiếng gọi: “Trời ơi!”

Chẳng phải riêng ta tắt hẳn nụ cười,
Cả cây cỏ cũng ngậm ngùi rên rỉ!
Hỡi những kẻ đánh mất bầu nhuệ khí,
Quên giống nòi bị nhọ trát, vôi bôi!
Tiếng non sông đã giục thúc bao hồi.
Sao lơ đãng như sóng đùa bọt váng,
Để niềm đau xóa mờ theo năm tháng?

Tình nghĩa quê hương đà xao lãng,
Mối tình dân tộc cũng tiêu du.
Hết Hè rồi lại đến Thu,
Quẩn quanh ngày tối gật gù hơi men!
Bạn bè từ chỗ thân quen,
Nhạt xơ xác mướp, nhọn chen gai hồng.
Tiếc thay dòng giống Tiên, Rồng,
Cháu con đất khách, ấm nồng nhạt hơi!

Non sông, Tổ Quốc ta ơi!
Còn đâu ánh thép rạng ngời Trời Nam?

Gương xưa vụt thoắt mờ biên ải.
Chí cũ vèo qua, nhục miếu am!
Bốn mươi năm qua quay ngoảnh lại,
Không tìm đâu được chút hương cam!

Tiếc thay! Bao thuở trước Tổ Tiên ta vẫn mãi…
Nung khí thiêng ngày đêm bài giặc ngoại.
Đổ máu xương giữ vững cõi bờ,
Mà giờ nầy con cháu kém mưu cơ!

Nỗi đau bật tự bấy giờ,
Dốc bầu, nốc cạn, ngóng chờ ngày mai!

Năm xưa đáng mặt trang đài,
Xuân Hương châm biếm cuộc đời hữu, vô.
Nước non lịm kín đáy mồ,
Lắm thằng quên hẳn cơ đồ. Buồn thay!

Thôi thì ta cứ uống say!
Say cho quên hết cuộc đời ngập, vơi.
Ta sinh ra chẳng phùng thời
Giữa loài lang sói, triệt người lập danh.

Đập cha hồ rượu tan tành,
Bước chân khập khiễng…
– Bất cần giới biên!

Thái Quốc Mưu

*

Vô Biên

Chúng ta ngồi quanh đây
Những cánh chim Hồng, chim Lạc
Sẻ chia nỗi sầu hoài man mác
Đã ngậm ngùi từ thủa Văn Lang
Hơn bốn nghìn năm tâm sự úa vàng
Buồn nhân thế bàng hoàng trong lá rụng
Hai mươi lăm năm buông súng
Hai trăm tám chục mùa trăng xa quê
Nhìn nhau tủi ánh nguyệt thề
Ngôi sao phương cũ lạnh tê tái lòng
Ngậm ngùi đôi mắt thương mong
Ôi ly rượu đắng còn hong nỗi buồn

Đây mầu rượu hiu hắt bóng hoàng hôn
Trầm mạch máu chảy trong hồn lưu lạc
Ta soi đời vào ly thấy men nồng đổi khác
Giọt lệ nào nhuốm bạc chút yêu tin?
Song vẫn ngây thơ qua cặp mắt nhìn
Hỡi sắc trắng của bao miền đất lạ
Chỉ gặp mưa ròng tơi bời hoa lá
Xin cùng đốt lửa đêm nay
Để khói thơm ngần biên biếc vờn bay

Nào ta nâng chén vui say
Hội phong vân mất, tình này còn thôi
Hôm nào Xuân hiện trên môi
Chén ly sinh ấy mộng trôi cơ đồ
Ngày mai bão dậy sóng xô
Dạ quang lại sáng bên hồ xa xưa

Xin rót cho dài cơn mưa
Hãy hát cho mờ dặm cỏ
Tôi sẽ ngâm vang cho dạt dào mưa gió
Người uống tràn cho đỏ thắm vần thơ
Nghệ nhân ơi hôn nhẹ nguồn mơ…

Này trúc Diệp Thanh, Bồ Đào, Mai Quế Lộ
Kia Ngũ Gia Bì, Biên Tái Tửu xanh vùng tri ngộ
Đây trên quầy bình Thiệu Hưng, Nữ Nhi Hồng
Chợt vẫy mình đang trôi nỗi giữa dòng sông
Không bờ bến, quên nặng nề thân xác
Hãy cùng nhắp Hennessy, Cognac
Hoặc Martell, Gin, Rhum, Whisky
Còn champagne và chai lớn Brandy
Ta phơi phới bay cùng trời, cuối đất
Thuyền có khẳm nhưng trùng dương rất chật
Rượu hừng rồi chếch choáng các người ơi!
Đi về đâu xa vắng những môi cười?
Ô hay khóc, nhớ gươm thần đã rỉ
Mời anh chị giơ cao bầu thanh khí
Uống cạn rồi xin đập vỡ chén ly bôi
Cho lòng ta xung động tiếng bồi hồi
Những âm nhọn càng làm ta choáng váng
Này thời gian có ngọt ngào năm tháng?

Thành sầu chừng phiêu lãng
Bầy chim uyên lơ đãng vân du
Đi đầu Xuân, về cuối Thu
Gào bên sóng rượu, sương mù hơi men
Hóc Môn, Bà Điểm thân quen
Ấm tầng xương thịt còn chen nho hồng
Ta đi tìm nhánh xương rồng
Nấu nồi ngô, lúa thêm nồng nàn hơi

Các bạn của tôi ơi!
Ngoài xa vẫn vọng bao lời Việt Nam

Nơi đây xứ sở ngàn quan ải
Mỗi trái tim thành một cái am
Mỗi thiết tha không hề trở lại
Chén rượu thanh bình đắng vị cam

Chao ôi, cố quốc muôn trùng làm sao khổ mãi!
Khi ra đi vườn xưa sầu hải ngoại
Lệ long lanh, ngần ngại đôi bờ
Nào biết đâu định mệnh huyền cơ

Thơ ôi nghiêng ngữa phút giờ
Rượu đời chưa cạn, ngồi chờ sao Mai
Mênh mang một ngả linh đài
Trải lòng ụa máu, vẫn nài bạn vô
Rượu đang gọi dưới nấm mồ
Luyến lưu thi sĩ. tửu đồ buồn thay!

Ừ, thì ta say, ta say
Uống thêm, cứ uống chén đầy, chén với
Lưu Linh, Nguyễn Bính một thời
Tản Đà, Lý Bạch ấy người thành danh
Đứng lên tinh thể tan tành
Lung linh trong bước tửu hành vô biên…

Hà Trung Yên

(Ngày 22 tháng 4 năm 2000, nhà thơ lão thành Hà Thượng Nhân từ San jose, California sang Atlanta, Georgia với thi sĩ Cung Trâm Tưởng và nhà văn Đào Văn Bình . Trong buổi nói chuyện về thi ca tại nhà anh Lê Nhật Thăng, anh Lê văn Dương đã diễn ngâm tuyệt vời bài thơ Vô Biên trên. Ngay sau đó nhà thơ Hà Thượng Nhân đã hạ bút họa lại tại chỗ bài thơ này. Ông viết một mạch, hầu như không sửa chữa gì cả. Chúng tôi chép lại đây để mời các bạn thưởng lãm thi tài. Và đối với chúng tôi, đây là một kỷ niệm vô cùng quý giá.)

Bài Họa

Bạn bè đó trên bước đường lưu lạc
Mùa Xuân thắm vẫn thấy buồn man mác
Thấy cuộc đời thay đổi lớp lang
Chợt soi gương, nhớ thân phận da vàng
Nhớ đất khách đã mấy mùa lá rụng
Nhớ lại lúc lệnh truyền cùng bỏ súng
Nhớ Quê Hương khi chưa bước xa quê

Nhớ như là nhớ lời thề
Ngoảnh nhìn sông nước lòng tê tái lòng

Chưa về như đã chờ mong
Chưa vơi chén đắng, rượu hong nội buồn

Chưa bình minh sao đã vội hoàng hôn
Chưa sum họp đã kinh hoàng thất lạc
Lòng chúng ta nào có gì đổi khác
Trước hay sau vẫn vững một niềm tin
Vẫn cặp môi tươi, vẫn khoé mắt nhìn
Tưởng quen thuộc mà hóa là xa lạ
Vẫn sông núi, vẫn cỏ cây hoa lá

Hôm qua đã chẳng hôm nay
Ngước nhìn lên làn mây trắng xưa bay

Mà ta không rượu vẫn say
Con đường xưa, ngọn gió này đấy thôi

Rượu nào cay cả đôi môi
Cầm bằng nước lũ cuốn trôi dư đồ

Cầm bằng muôn lớp sóng xô
Mới vừa chợp mắt cơ hồ đã xưa

Bỗng dưng trời lại đổ mưa
Có ướt mấy gian lều cỏ?
Khó vẩy bút để gào mưa, thét gió
Lại quay về tủi hổ tấm lòng thơ
Lại quay về cho trọn một cơn mơ
Ta vẫn đó như bước vào mê lộ
Sao nhớ vậy  những buổi chiều hội ngộ
Những bình minh rực rỡ mấy bông hồng
Những đêm buồn trăng sáng một dòng sông
Những khói bếp trên mái tranh xơ xác
Những tiếng sáo chiều Hè như muốn nhắc
Cất đi anh những chai rượu Uýt ky
Cách trùng dương mòn mỏi bước chân đi
Bốn phương rộng vẫn mênh mông trời đất
Mà một bước quay đi lòng đã chật
Lòng nhủ lòng, đừng nhớ nữa lòng ơi!
Có gì đâu mà để tắt tiếng cười?
Hoa với lá vẫn bên thềm rủ rỉ
Mặc năm tháng, chẳng để mòn chí khí
Nhớ người xưa gõ chén”Sổ ly bôi”
Câu thơ ai nhắc lại vẫn bồi hồi
Vẫn tỉnh táo sao đã nghe choáng váng
Gỡ tờ lịch ngỡ là quên ngày tháng
Đau xót bước chân phiêu lãng
Trăm năm một giấc phù du

Tháng ba đã tưởng là Thu
Chưa say, tóc đã mịt mù khói men
Thế nhân ai lạ, ai quen
Những ai ngơ ngác đua chen bụi hồng

Sông Thu vắng vẻ cá rồng
Thiếu Lăng rượu phỏng đã nồng mấy hơi?

Tài hoa, ta hởi, ta ơi!
Ca Dao rót mãi những lời Bắc Nam

Dù cho đây chẳng là biên ải
Chẳng là thủa ấy Bạch Vân Am
Sao bước chân này không trở lại
Hiên sau trăng sáng giãi vườn cam
Chớp mắt đó mà tưởng chừng như mãi mãi
Và quê nội, và ở đâu quê ngoại?
Và con sông chia cách đã đôi bờ
Và con người vẫn sớm tối mưu cơ

Bây giờ tưởng lại bao giờ
Chưa chiều hôm đã vôi chờ sớm mai
Chưa thơ một cõi linh đài
Dù mong ảo giác, đã nài hư vô
Nghĩa trang lại mấy nấm mồ
Có đau khi một cơ đồ đổi thay?

Đập ly thôi chẳng muốn say
Hận này khó rót cho đầy chén vơi
Ấy là chữ thế, chữ thời
lẽ nào làm một con người vô danh

Chưa say chén đã tan tành
Nghiêng tai nghe bước quân hành ngoài biên…

Hà Thượng Nhân
04 22 2000

Mùa Thu Đến

Kính hoạ bài:  Vì Mùa Thu Đến:: Hà Trung Yên

Cảnh trí sang mùa tự hóa trang
Rừng phong xanh ngắt chợt thay vàng
Sông xa bàng bạc màn sương phủ
Đồng vắng im lìm tiếng dế vang
Cánh hạc tầng không reo “quắc quắc”
Chuông chùa triềng núi gióng “làng phàng”
Nghe trong âm hưởng buồn muôn thuở
Lác đác chim sà bãi cỏ hoang

Bấm tay nhẩm tiếp một mùa Thu
Sương khói dâng lên mù mịt mù
Gió lộng sau vườn vương nỗi nhớ
Câu hò dưới bến nhắc lời ru
Vần thơ viết mượt âu là thế !
Giấc mộng còn trong dẫu có dù …
Thì nhắc cố chờ ngày trở lại
Quê nhà thương mãi ngọn đèn lu

Sự đời thấm thoắt cũng dần qua
Cuộc thế xoay chiều chịu cách xa
Khúc hát Vọng Phu thương núi Đá …(Bia)
Bài thơ Xóm Đạo nhớ thôn Tha … (La)
Quê người giữ lấy văn phong tốt
Đất khách ngóng về nguồn cội ta
Ao ước mong sao nề nếp cũ
Hương xưa còn giữ cốt nho nhà.

Khi đổi mùa sang đỏ hóa xanh
Thu Đông nguyên vẹn sắc chân thành
Không lo núi dựng – điều hòa bước
Chẳng ngại dốc chuồi – đột ngột phanh
Gió cuộn hồn thơ nhanh sáng tạo
Mây vờn ước nguyện sớm thi hành
Vầng dương bừng dậy bao trùm cả
Vần chuyển thế thời quá sức lanh

Tất cả rồi ra sẽ nhạt phai
Tích xưa tuồng cũ ngắn hay dài
Bao người hoan hỷ bồi thêm lửa
Triệu kẻ vui mừng gánh phụ vai
Tay nắm đoàn viên dang cánh nhạn
Đèn soi hội ngộ lướt thuyền chài
Đường làng lối xóm dìu nhau bước
Vui Cuộc tao phùng uất hận ngoai …

Hạ Thái Trần Quốc Phiệt

*

Vì Mùa Thu Đến

Đã buồn thành thị với thôn trang
Vì những rừng xanh hóa biển vàng
Sương gội cành khô vờn khí lạnh
Tiếng từ thân rụng xiết âm vang
Ngàn năm thơ vẫn nghìn ngơ ngẩn
Mỗi bước thu tăng một phụ phàng
Mạch lá khi nào un máu biếc
Là cây đời trổ sắc vườn hoang

Lại ngắn đường về mỗi bước thu
Thêm cao nương khói, rộng sông mù
Đài hoa còn đậm từng hương nhớ
Lời gió buông dài những điệu ru
Hỏi bóng chim buồn chi mãi thế ?
Lạc phương mưa, gọi mãi cho dù …
Đành quê mơ nắng trong mùa rụng
Ta: Lá trăng vàng bỗng sớm lu

Không phượng nên nào biết hạ qua
Sớm dây sương đục chắn đường xa
Đây ngàn lá cuộn thân chầm chậm …
Sao biển lòng dâng nhớ thiết tha ?
Một mảnh sao hồn vương vấn bạn
Hai mùa thơ cúc ngậm ngùi ta
Thu ơi, thiên lý bên thềm cũ
Còn áng hương xưa nép mái nhà ?

Không xuân hồng cũng chẳng hè xanh
Đời cứ Thu, Đông mộng khó thành
Tim mắt ai bao ngày lận đận
Che hồn thơ chiếc áo phong phanh
Hoen vần tư tưởng trang trường dạ
Mỗi bước lưu ly độ viễn hành
Chưa thực vầng dương dồn nét tái
Hóa mầu trăng bậc ý long lanh …

Một mùa tê cộng một mùa phai
Vẫn một mênh mang tiếng thở dài
Không lẽ giếng vàng xa vạn dặm !
Nghĩ gì tơ trắng lả đôi vai ?
Lơi vòng tay đón bầy chim nhạn
Quên khép đêm mơ ngọn lửa chài
Đâu lối bàng ? Đâu hàng liễu ngả ?
Bấc về ta hí hận nguôi ngoai…

Hà Trung Yên

Năm Ngựa / Nhớ Vó Ngựa Xưa 

Năm Ngựa

Có chàng ngựa bạch xoải triền nắng
Hóa thỏi vàng bờm xõa dốc xa
Đầu ngước cao trời thu gió lửa
Đập trên đường nhịp vó trường sa

Kìa con ngựa xám đang buồn gặm
Chầm chậm trưa hè chẳng ngó quanh
Ngẫm nghĩ nhai từng thân đắng ngọt
Bụng tròn chứ hết cỏ đồng xanh

Ngựa hồng da lửa tung bay cánh
Vệt đỏ trườn nghiêng cháy một vùng
Hãn huyết bừng lên tô lịch sử
Yên chồm chiến mã dáng Quang Trung

Hắc ô lững thững đêm trầm lặng
Gõ móng êm gần tiếng lá rơi
Thồ nặng trên lưng bao chiến cụ
Ngực râm ran muốn hí vang trời

Bầy ngựa hoang lang thang lũng hẹp
Gã đầu đàn dẫn lối da nâu
Mã đề thậm thịch hằn mô đá
Uống nước trong veo chảy dưới cầu

Tám ngựa tranh thần riêng ảnh tượng
Tưởng như bão lộng rít quanh tường
Bách hồi thạch mã mòn chân thép
Ai hiểu ngựa Hồ lạnh thấu xương ?

Ai muốn hòa hoa đời mã thượng
Phong trần mã lộ gợi binh đao
Tướng quân da ngựa còn phơi mãi
Chú ngựa vằn ngơ ngẩn đếm sao

Bóng câu Nhâm Ngọ vèo qua cửa
Bạc tóc bao giờ sợi mã tiên
Đứng vững làm người như ngựa ngủ
Mùa Xuân phi kiệu giữa bình nguyên

Hỡi ngựa già nằm yên nhớ trận
Nhớ trăng soi, nhớ sóng trường giang
Nghe roi vun vút thèm dây đái
Ruột thẳng còn mơ buổi đế hoàng

Xuân con ngựa
Hà Trung Yên

 

 

Nhớ Vó Ngựa Xưa 

Kính hoạ: Năm Ngựa – Hà Trung Yên

Chiều cuối Ðông sao đầy ánh nắng
Tưởng như vó ngựa cuốn đường xa
Ðã tan cuộc chiến tàn binh lửa
Sao vẫn đêm dài nước mắt sa

Một sải bay trên ngàn vạn dặm
Mặc cho đây đó khúc đường quanh
Mặc cho đỉnh núi mây tan hợp
Mặc những triền xa đám cỏ xanh

Ngựa như được gió lùa thêm cánh
Bon mấy trùng xa biết mấy vùng
Thế trận trước còn trong lịch sử
Ðến nay dấu khắc giữa sơn trung

Trong bao tịch mịch bao im lặng
Những hạt mưa Thu lã chã rơi
Những giọt mồ hôi ngoài chiến sự
Những đêm mưa lạnh ngủ bên trời

Ngựa thương thân ngựa trong khung hẹp
Ngựa cũng đành theo lối ngõ nâu
Thôi lúc tung, hoành, phi, cước đá
Những khi rầm rập lướt qua cầu

Ngựa kia ai dễ nung thành tượng
Ai ghép vào trong những bức tường
Ai biết ngựa này ghê móng thép
Ðụng vào chỉ có nát da xương

Mà ai đã ở trên vùng Thượng
Ðã dự vào nhiều trận đại đao
Hẳn chửa từng quên, còn nhớ mãi
Nhớ ai? Chẳng hiểu nữa vì sao!

Vì sao có kẻ bên song cửa
Xiêm áo mơ hồ một giáng tiên
Ta quyết không làm thân ngựa ngủ
Trận đồ chiến mã vẫn y nguyên

Chao ơi! Vó ngựa xưa lâm trận
Khi đẩy con đò để quá giang
Khi khách phong trần đâu chợt đến
Mùa Xuân phút chốc lại huy hoàng

Huệ Thu