Category Archives: Biên khảo

Về Hà Nội nhớ Bà Huyện Thanh Quan*

THĂNG LONG HOÀI CỔ

Tạo hóa gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường.

HTQ

Ðây là một bài thơ tề chỉnh hết sức tề chỉnh. Lại là một bài thơ hay .
Bài thơ hay vị tất đã là một bài thơ tề chỉnh . Ngày xưa các vị đại khoa thi xong, vua thường ban yến đãi tiệc . Các vị đỗ cao thường làm một bài thơ để lưu niệm. Như của các vị Trạng Nguyên, Bảng Nhãn hay Thám Hoa nhất định là phải đúng niêm luật nhưng chưa chắc là những bài thơ hay. Chứng cớ là cho đến ngày nay , loại thơ ấy còn mấy bài được truyền tụng. Trái lại những bài thơ hay nhất của Trung Hoa và Việt Nam chưa chắc là những bài thơ tề chỉnh, lại đôi khi còn không đúng niêm, đúng luật. Niêm luật giúp chúng ta làm thơ tề chỉnh, nhưng niêm luật chưa phải là thơ. Những cây bút “đại gia” thường vượt lên trên niêm luật. Bời thế mới có Bùi Giáng, và thơ Bùi Giáng mới được truyền tụng, tuy thơ của Búi Giáng phần lớn là thơ của người điên. Vừa đây Nguyễn Văn Lục trong báo Tân Văn số ra mắt có viết một bài về Búi Giáng mà theo tôi thật giá trị. Ðó là một con người cam đảm , dám tin ở những điều mà mình cho là thật. Ngày xưa có một giai thoại, nhà văn Nghiêm Xuân Hồng là bộ trưởng chiêu hồi, Thanh Tâm tuyền là trung úy. Trong một tiệc rượu ông Nghiêm Xuân Hồng nửa đùa nửa thật hỏi Thanh Tâm Tuyền :

Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mát quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Mặt chữ điền thì vuông vắn như cái bánh chưng, đẹp gì mà đẹp . Thanh Tâm Tuyền nói ông hiểu thơ như vây thì thật là giết người ta chứ còn gì nữa ! Hồng cười nói , thì ít ra anh cũng phải cắt nghĩa cho chúng tôi hiểu chứ ! Bấy giờ có một nhà thơ can rằng: anh Hồng chắc là hỏi đùa mà chơi vậy thôi . Thật ra thì đối với người Việt Nam thì cái gì vuông vức tròn trịa đều đẹp vì nó phúc hậu . Ðây tác giả chỉ muốn nói thế thôi . Ngôn ngữ của thơ, không phải là ngôn ngữ của toán học .
Ai về ai có nhớ ai ; Ai cũng là tôi mà cũng là người tôi yêu. Toán thì không thế , hai với hai nhất định phải là bốn, nhất định, rõ ràng và minh bạch như vậy . Bài Hoàng Hạc Lâu được kể như bài thơ hay nhất của Trung Hoa, bài thơ ấy phá hết niêm luật :

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Mới câu đầu đã thất luật,

Thử địa không du hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du

Hai câu 3 và 4 không đối

Tình xuyên lịch lịch hán dương thụ
Phương thảo thê thê anh vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng xử nhân sầu

Không có một chữ nào một câu nào cầu kỳ, giản dị như lời nói, hay ở chỗ nào ? Thật khó mà trả lời ! Thơ để mà cảm chứ không để phân tích. Người ta cảm được cái hay của thơ, cái hồn của thơ; như người ta đã cảm được lời nhạc của Văn Cao, của Trịnh Công Sơn . Nhiều lời của Trịnh Công Sơn nếu phân tích thì thật là tối nghĩa ố gọi em cho nắng chết trên sông dài…- bảo cắt nghĩa thì không cắt nghĩa được , bảo cảm thì cảm được . Nguyễn Tất Nhiên có hai câu thơ mà tôi nghĩ Phạm Duy phải là tay thượng thặng mới nhìn ra : Ngồi trong lớp học đắp đôi tay ngà, hoặc: tưởng là hoa hậu, nhưng mà tiểu thơ ! Hai câu thơ ấy có thể là của một người điên, người điên thi sĩ . Những bài tiếng Thu, Ðôi Mắt Người Sơn Tây, Tống Biệt Hành… những bài thơ hay chưa tề chỉnh . Vậy tề chỉnh chưa phải là điều kiện cần và đủ cho một bài thơ hay .

Trở về bài Thăng Long Thành Hoài Cổ :

Tạo hóa gây chi cuộc hý trường

Chúng ta cũng đã trải qua một cuộc hý trường : 30 tháng 4 1975, nên chúng ta cũng có chung nỗi ngậm ngùi với tác giả.
Ðến hai câu thực thì :

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Ðền cũ lâu đài bóng tịch dương
Ngày xưa, xe ngựa của các bậc vương tôn đông đúc là thế . Bây giờ chỉ còn trơ lại những cỏ khô mùa Thu. Ðường cũ thì lâu đài vào lúc chạng vạng đã thê lương càng thêm thê lương

Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương

Ðối từng câu từng chữ, mà không có vẻ gì là đối cả . Thần tình là ở chỗ ấy, đối mà không đối ! Ði qua Hà Nội nhớ đến người xưa, cảnh cũ lòng bất giác ngậm ngùi . Cho nên bài thơ, tình thật thiết tha, ý thật sâu đậm , nó hay vì thật. Lời thơ trang nhã, ngôn ngữ của Bà Huyện Thanh Quan là ngôn ngữ của thi ca trưởng giả, rất thanh tao đài các . Những chữ trơ gan , chau mặt là những chữ thật thần, không phải muốn có là có được .
Ðọc thơ Ðường, thú là thế . Ít câu, ít chữ mà ý tứ thật ngậm nguì man mác…

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường.

Bài Họa
LẠNH SA TRƯỜNG

bài 1

Nghĩ xưa đêm xuống lạnh sa trường
Ðâu lạnh riêng vì gió với sương
Ðất mới buồn chung trời tỵ nạn
Lầu cao bóng lẻ buổi tà dương
Chẳng say đắm mấy sao tha thiết
Thêm nhớ nhung mà lại tiếc thương
Tôi chẳng giống như bà Huyện trước
Ðèn thao thức mãi suốt canh trường

bài 2
GIỮA CHIẾN TRƯỜNG

Ai đã vùi thân giữa chiến trường
Bao lần trăng giải mịt mù sương
Cúi đầu ngó xuống tàn canh vắng
Ngửa mặt nhìn lên lạ bóng dương
Sóng chẳng giận ai mà phẫn nộ
Thơ không sao cả cũng bi thương
Cùng ai Thiên Cổ cùng tâm sự
Gửi lại ngàn sau nỗi đoạn trường

.*

NHỚ BÀ HUYỆN THANH QUAN

Khi bà về lại đất Thăng Long
Bỗng chạnh niềm tây, bỗng não nùng
Tôi bước trên đê Yên Phụ cũ
Mà thương bà Huyện đến vô cùng

Hà Nội bây giờ đã khác xa
Lưu đày ngay lúc ở quê cha
Tôi như kẻ tận phương trời lạ
Ðứng giữa Hồ Gươm nhớ nước nhà

Lại nghe đây đó xôn xao Tết
Ðây đó còn nguyên tiếng Việt Nam
Chỉ tội cây nêu buồn ủ rũ
Bếp nhà ai đó khói xanh lam

Huệ Thu

  • Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh. Bà sinh trưởng vào cuối triều Lê, đầu nhà Nguyễn. Bà là con của vị danh nho Nguyễn Lý (1755-1837) vốn là một cựu thần nhà Lê.

[yourchannel user=”CNN” search=”Nhạc cụ dân tộc”]

Vì sao Đức Quán Âm tay cầm thùy dương liễu, tay cầm bình thanh tịnh đựng nước cam lồ

Quán Thế Âm có nghĩa là quan sát tiếng kêu than của chúng sinh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ. Vì thế bất cứ chúng sinh ở đâu đau khổ thì Ngài thị hiện đến để cứu độ. Quán Thế Âm Bồ tát là hiện thân của từ bi do đó Ngài có thể hóa thân để cứu giúp chúng sinh ở bất cứ hoàn cảnh nào. Có nhiều lần Ngài hóa thân làm người nữ để độ đời nên người ta thường gọi Ngài là Phật Bà. 

Quán Thế Âm hay còn gọi là Quán Âm, Quan Âm (để tránh tên tự của vua Lý Thế Dân đời Đường) có nghĩa là người quán chiếu thế giới, nghe hết mọi âm thanh, thường mang hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn (nghìn tay nghìn mắt), hoặc một người phụ nữ mặc y trắng, tay trái cầm bình ngọc Thanh tịnh chứa nước Cam lộ, tay phải cầm nhành dương liễu, ngồi hoặc đứng trên một đóa sen hồng, nhưng thực chất Ngài còn có 33 Ứng hóa thân, hồng danh khác nhau.

Quán Thế Âm được ca ngợi có tấm lòng từ bi, có sức mạnh huyền diệu cứu giúp họa nạn, phổ độ chúng sinh, bảo hộ phụ nữ.

Những Ứng hóa thân đó của Ngài đều được xây dựng trên nền tảng Kinh sách và tư tưởng hóa độ lục đạo trong tín ngưỡng dân gian Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Trong đó thì Đại Bi, Đế Thích, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại, Tỳ Sa Môn, Tỳ Kheo, Dạ Xoa, Ưu Bà Tắc, A Tu La, Thần Chấp Kim Cang… đều là hòa thân và hồng danh của Ngài.

Về hình tượng của Ngài thì chúng ta có thể thấy dựa theo lịch sử như: Quán Âm Hài Nhi là dựa theo cốt truyện Quán Âm Thị Kính, Quán Âm Nam Hải, Quán Âm Tử Trúc… Riêng về phái Mật tông thì có Quán Âm Mã Đầu, Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Quán Âm Cửu Diện…

Quan Âm được ca ngợi có tấm lòng từ bi, có sức mạnh huyền diệu cứu giúp họa nạn, phổ độ chúng sinh, bảo hộ phụ nữ.

Dựa theo kinh Di Đà thì người sanh về cõi Cực Lạc tuy chưa chứng quả Thánh vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Thêm nữa, kinh A Hàm còn nói người nữ có năm chướng không thể thành Phật… Thế mà, Quán Thế Âm Bồ Tát lại hiện thân người nữ. Ngài có dụng ý gì?

Nhưng có một pho tượng mà ai ai trong chúng ta cũng đều biết đến đó là Quán Âm thanh tịnh. Tượng Quán Thế Âm này là hình người nữ đứng trên hoa sen, tay mặt cầm cành dương liễu và tay trái cầm bình thanh tịnh, trong bình đựng nước cam lồ. Nhưng tại sao Bồ tát lại là người nữ? Dựa theo kinh Di Đà thì người sanh về cõi Cực Lạc tuy chưa chứng quả Thánh vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Thêm nữa, kinh A Hàm còn nói người nữ có năm chướng không thể thành Phật… Thế mà, Quán Thế Âm Bồ Tát lại hiện thân người nữ. Ngài có dụng ý gì?

Quán Thế Âm Bồ Tát là hiện thân của đức Từ Bi mà trong thế gian nầy không có tình thương nào chân thành thâm thúy bao la hơn là tình mẹ thương con. Cho nên, đức Quán Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh. Người mẹ dầu bận công ăn việc làm gì mà một khi nghe tiếng con kêu khóc thì mẹ buông bỏ tất cả để chạy lại vỗ về cho con.

Đức Quán Thế Âm cũng thế, dù bận việc giáo hóa ở đâu, một khi nghe tiếng kêu thương của chúng sinh, Ngài liền hiện thân đến an ủi. Vì thế, chúng ta gọi Ngài là người mẹ hiền của tất cả chúng sanh. Người mẹ lúc nào cũng lắng nghe tiếng nức nở từ cõi lòng của đàn con dại đang đắm chìm trong bể khổ mênh mông, để đến xoa dịu, cứu thoát khiến mọi khổ não đều được tiêu tan.

Tay mặt Ngài cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Còn tay trái cầm bình thanh tịnh đựng nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi.

Ngài dùng cành dương liễu để rưới nước mát cam lồ cho chúng sinh. Vì sao lại dùng cành dương liễu để nói lên tính nhẫn nhục? Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm, gặp gió mạnh thì uốn mình theo chiều gió, gió dừng là trở về vị trí cũ. Nếu cứng như cành cây lim, cây gõ thì gió không thể lung lay, một khi bị gió lớn là phải gãy. Còn yếu như cành liễu thì chỉ buông rũ theo chiều gió và cũng nhờ sức mềm dẻo nên khéo tùy duyên mà không mất vị trí. Nói một cách khác là tuy chìu theo cảnh mà không bị cảnh chi phối.

Vì thế, cành dương liễu được tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Nhẫn nhục ở đây không có nghĩa là ai làm sao cũng được hoặc ai bảo gì cũng nghe mà nhẫn nhục là khéo tùy thuận người để hướng dẫn họ theo đường lối hay lập trường của mình. Người nhẫn nhục mới trông qua như rất yếu hèn, nhưng kỳ thật họ có sức mạnh phi thường. Họ đã vượt ra ngoài giới hạn của con người phàm tục và họ đã chiến thắng được tình cảm cũng như chính bản năng của họ.

Thông thường thì người chửi ta giận, người đánh ta đỡ. Đó là bản năng tự vệ của tất cả mọi người. Bị chửi mà không giận, bị đánh mà không đở ấy mới là việc khó làm. Hằng ngày sống theo tình cảm, theo bản năng thì thấy những phản ứng tự nhiên như vậy thì chúng ta cho là phải lẽ và hợp lý. Nếu thấy người bị chửi mà không giận thì chúng ta đâm ra bực tức, khi dễ họ và cho họ là những kẻ yếu hèn nhút nhát. Đâu ngờ rằng với tâm nhẫn nhục họ đã vượt xa chúng ta, họ đã đứng trên đỉnh chúng ta mà ở dưới nầy chúng ta vẫn còn tự cao tự đại.

Ngài dùng cành dương liễu để rưới nước mát cam lồ cho chúng sinh.

Nước cam lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được. Chữ cam là ngọt còn chữ lồ là đọc ngược từ chữ lộ, tức là sương. Khi bị nóng bức khô khan, nếu được giọt nước cam lồ thấm vào cổ thì chúng ta sẽ nghe ngọt ngào mát rượi. Nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi của Bồ tát.

Khi chúng sanh bị lửa phiền não thiêu đốt và thiết tha cầu cứu nơi Bồ tát thì Ngài sẽ mang nước từ bi đến dập tắt và đem lại cho người sự mát mẻ an lành.

Hiện tại chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới và ngọn lửa phiền não của chúng ta đang bừng cháy liên tục. Nếu không có giọt nước từ bi của Bồ tát thì chắc chắn chúng ta đều phải chết thiêu trong lò phiền não. Nên nhớ rằng từ bi là tình thương không vụ lợi, không phân biệt thân sơ và chính là tình thương chân thật bình đẳng. Từ bi chẳng những cứu người trong cơn nguy khốn, mà còn đem lại cho chúng ta nguồn an lạc vô biên.

Bởi tính chất quý báu vô thượng của nước cam lồ, nên Bồ tát phải đựng nó trong cái bình thanh tịnh. Bình thanh tịnh là tượng trưng cho ba nghiệp trong sạch, đó là thân, khẩu, ý. Nếu chúng ta ôm ấp lòng từ bi muốn cứu độ chúng sanh, mà thân, miệng và ý chưa được trong sạch thì khó mà thực hiện được lòng từ bi đó.

Chẳng hạn như những vụ thiên tai bảo lụt trên thế giới. Nếu chúng sinh vì lòng từ bi thương người hoạn nạn đem tiền tài vật chất đến tặng họ. Nhưng nếu chúng sinh đó ý chưa trong sạchthì dễ dàng bị danh lợi làm hoen ố lòng từ bi. Cho nên, muốn thực hiện lòng từ bi, điều kiện quan trọng là thân, miệng và ý phải thanh tịnh.

Thêm nữa, muốn mang nước cam lồ ra tưới mát chúng sanh, Bồ tát phải dùng cành dương liễu làm phương tiện. Tại sao? Bởi vì chúng sanh trong đời nầy nghiệp chướng quá sâu dày, ít khi thấy lẽ phải. Họ chỉ sống theo bản ngã và sống vì dục vọng của họ nên khó ai làm cho họ hài lòng. Cho nên có người sẵn sàng giúp họ khi khốn đốn mà họ vẫn không biết ơn. Người sẵn lòng từ bi ra tế độ chúng sanh, nếu thiếu đức tánh nhẫn nhục thì sự tế độ đó khó được viên mãn.

Mỗi khi lễ tượng đức Quán Thế Âm, chúng ta luôn luôn ghi nhớ hai đức tính căn bản của Ngài là từ bi và nhẫn nhục, để đem nó áp dụng vào chính bản thân của chúng ta.

Bởi thế, người học đạo từ bi trước hết phải tập đức nhẫn nhục và khi nhẫn nhục được thuần rồi thì mới bắt đầu thực hành từ bi. Chưa tập được đức nhẫn nhục mà đã vội thực hành từ bi, chẳng những không làm được hạnh từ bi, mà chúng ta dễ dàng phát sanh sân hận. Cho nên, phải có cành dương liễu rồi sau mới nhúng nước cam lồ rưới mát chúng sinh.

Lòng từ bi không nhất thiết chỉ có trong tâm của Bồ tát hay trong tâm những kẻ tu hành, mà nó còn ở trong lòng của tất cả chúng sanh. Cho nên, ai ai cũng có thể là bậc cứu khổ chúng sanh, nếu họ phát tâm từ bi. Nói một cách khác, từ bi không phải là gia bảo dành riêng cho các bậc tu hành, mà nó là của chung cho tất cả nhân loại. Dù ở hoàn cảnh nào, trường hợp nào, cũng có thể thực hiện từ bi được, nếu trong lòng chúng ta chứa sẵn từ bi.

Sau cùng, chúng ta thấy lòng từ bi thì cao cả khôn lường. Do đó mỗi khi lễ tượng đức Quán Thế Âm, chúng ta luôn luôn ghi nhớ hai đức tính căn bản của Ngài là từ bi và nhẫn nhục, để đem nó áp dụng vào chính bản thân của chúng ta. Được như thế thì sự lễ bái mới thật là hữu ích và cần thiết vô cùng.

Nguyên Phong

Nguồn: Phật Giáo Việt Nam

[yourchannel user=”CNN” search=”Quán Thế Âm Bồ Tát”]

Từ Trà Đạo Đến Trà Thư

100 năm đã qua kể từ lần xuất bản đầu, “Trà thư” của Kakuzo Okakura là tác phẩm quan trọng giúp người nước ngoài hiểu Trà đạo và thông qua Trà đạo, hiểu cốt tủy của văn hóa Nhật Bản… 
……
Bí ẩn trà đạo Nhật Bản 

1. Hoà, kính, tinh, mịch – bốn chữ vàng 

Trà là thức uống ngàn xưa của các dân tộc Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên…; trà cùng với cà phê, cả hai đều gốc gác ngoại lai, là hàng tiêu dùng thông dụng hằng ngày của người Âu, người Mỹ, người Nga…, nhưng cùng một loại sản phẩm mà quan niệm về trà cách thưởng thức trà rất khác nhau. Có mấy ai ngoài người Nhật biết đến Lễ thức dùng trà được nâng lên ngang một “đạo” gọi là Trà đạo? 

Trên thực tế, như lời học giả và trà sư Sen Soshitsu XV, hậu duệ đời 15 của đại trà sư Sen Rikyiu, 

Tiến sĩ Sen Soshitsu, sinh năm 1923 là hậu duệ đời thứ 15 của đại trà sư Sen no Rikyiu, tổ sư môn phái Trà đạo Urasenke. Ông là tác giả nhiều sách về Trà đạo: Tinh thần của Trà, Trà đạo: Từ nguồn gốc tại Trung Hoa đến Sen Rikyiu, Chanoyu: truyền thống dùng trà của môn phái Urasenke, Nghệ thuật dùng trà, vv. Ông đã xuất ngoại hàng trăm lần đến giới thiệu và trình bày Trà đạo tại mấy chục nước trên thế giới. Năm 80 tuổi, ông rút lui, nhường chức danh đại trà sư đứng đầu môn phái Trà Urasenke cho người con trai cả là tiến sĩ Zabosai sinh năm 1956. Bắt đầu từ 22-12-2001 ông này mang danh hiệu Sen Soshitsu XVI. người đặt nền móng cho Trà đạo ở Nhật Bản vào thế kỷ XVI, đã viết: “Trà đạo, dưới con mắt của nhiều người nước ngoài thường xuyên bị bao phủ trong một tấm màn huyền bí. Thật ra, nguyên lý của nó rất đơn giản: một nhóm nhỏ bạn bè gặp nhau trong mấy tiếng đồng hồ, cùng nhau dùng thức ăn nhẹ và thưởng thức vài chén trà, dĩ nhiên tuân theo cung cách nhất định, để cùng nhau buông mình vào khoảnh khắc hoàn toàn thư giãn giữa cuộc sống luôn luôn sôi động, đầy rẫy những chuyện trớ trêu”. Để chứng minh, ông dẫn một giai thoại: Một lần đại trà sư Rikyiu tự tay pha chế trà mời mấy người bạn thân thưởng ngoạn. Ai nấy đều cảm thấy vô cùng thoải mái, như thể vừa xuất thần. Một người hỏi đâu là bí quyết. Rikyiu đáp: “Bí quyết ở chỗ các vị chuẩn bị tâm thế khiêm cung khi thưởng thức trà”. “Thì ai chẳng biết chuyện ấy” – người bạn nói. “Vậy thì – Rikyiu cười – vậy thì xin bạn hãy bắt tay chuẩn bị trà hầu quý khách như tôi vừa làm. Tôi sẽ là khách mời của bạn, và có thể sẽ trở thành một môn đồ của bạn cũng nên”. 

Nói cho đúng, Trà đạo có những phép tắc của nó. Theo tổ sư Rikyiu (1522-1591), những phép tắc ấy gói gọn trong bốn từ gốc Hán: wa-kei-sei-jaku (hòa-kính-tinh-mịch). Chúng yêu cầu những người cùng dự Lễ thức trà (chanoyu-trà thang) chấp nhận một số quy tắc ứng xử, nhiều khi cũng khiến nhưng người chưa quen cảm thấy gò bó. Tuy nhiên, theo môn đồ trà đạo, chanoyu chẳng qua là thực hiện những việc vẫn diễn ra thường xuyên trong cuộc sống hằng ngày: mấy người bạn ngồi xuống chiếc chiếu, dùng chung một bữa cơm, thưởng thức vài chén trà. Vẫn theo Sen Soshitsu XV, bốn từ wa-kei-sei-jaku không hàm chứa những gì quá ư cao siêu, huyền bí, ngoài khuôn khổ cuộc sống thường nhật. Đại trà sư Sen Rikyu có lần giải thích: “Chanoyu đơn giản là việc nhặt gom than củi, đun sôi siêu nước và pha trà uống với nhau – chỉ có thế mà thôi”. 

Wa (hòa) cội nguồn từ Khổng giáo, là đức của con người và của cuộc đời. Hòa, thuận hòa, hài hòa, hòa bình, hòa hợp, hòa đồng…, chúng ta ai cũng đều rõ nội dung, song quan niệm về hòa của Trà đạo nhấn mạnh một số nét riêng. Hòa đòi hỏi mọi người trong trà thất tự chuẩn bị cho mình một tâm thế hài hòa với khung cảnh, kiềm chế lòng vị kỷ và sự nóng giận, làm sao cho tư duy và hành xử của mình hòa hợp với mọi người. Chữ hòa của Trà đạo đề cao tính trang trọng và nét thanh bần vốn là tinh chất của cuộc đời bình dị, nhờ vậy tạo nên được khoảnh khắc tách biệt hẳn cuộc sống xô bồ hiện hữu bên ngoài. Hòa đòi hỏi mọi người đồng thuận thực hành một số quy định như cúi người đến mức nào khi chào nhau, chuyện trò trong trà thất nên hướng vào những chủ đề gì, khách dự cần giữ im lặng chờ đến lúc nào mới nên cất lời phá bầu không khí tĩnh mịch, vv. 

tin180.com/wp-content/blogs.dir/6/files/2010/03/Tu-Tra-da… 

Pha trà 

Ý nghĩa sâu xa của chữ hòa ở đây là sự bình đẳng xã hội của mọi người trong trà thất. Đã vào đây thì ai cũng như ai, không cần biết thân thế của mỗi người cao sang hoặc hèn kém. Sự bình đẳng này giúp cho mọi người ít nhất trong chốc lát cảm thấy mình hoàn toàn tự do, không chịu bất cứ sức ép nào và từ đâu đến. Bình đẵng không có nghĩa là hỗn độn. Đã thỏa thuận giữa các khách mời với nhau trước khi bước vào trà thất, là ai sẽ là người ngồi vào chỗ danh dự, mỗi người sẽ có phần việc ra sao… Để tạo nên khung cảnh và tâm thế ấy, trà thất cho dù làm riêng biệt hoặc thu xếp một nơi ngay trong nhà ở, đều phải tạo cho được vẻ giản dị, thanh bần. Do đó, có quy ước trà thất chỉ rộng bằng bốn chiếc chiếu rưỡi, trong một túp lều tranh là tốt nhất. Khách đến dự nếu là võ sĩ phải tự mình tháo kiếm gác ngoài hiên, những người quyền lực, giàu sang được khuyến cáo nên ăn mặc giản dị… 

tin180.com/wp-content/blogs.dir/6/files/2010/03/Tu-Tra-da… 

Trà sư Sen Rikyiu 

Chớ nên quên hoàn cảnh trà sư Sen Rikyiu đề ra các quy tắc của Lễ thức khi lập ra môn phái trà Urasenke. Ấy là vào thời kỳ chủ nghĩa phong kiến Nhật Bản đạt thịnh trào. Ông buộc phải định chỗ dành riêng cho vị khách danh dự có nhiều quyền lực nhất, chỗ ngồi này cao hơn các khách khác một bậc. Khí hậu và thời tiết nước Nhật Bản hết sức khác biệt theo mùa. Thưởng ngoạn trà vào mùa đông đương nhiên phải khác lúc hè. Môn đồ hỏi bí quyết tạo môi trường phù hợp ở đâu. Sen Rikyiu đáp: “Mùa hè, phải gây cảm giác mát mẻ. Mùa đông, sao cho mọi người thấy ấm cúng. Hãy đun sôi nước lên, và pha trà mời khách, sao cho mọi người ai cũng cảm thấy thoải mái”. Trên thực tế các quy tắc tiến hành Lễ thức trà khá nghiêm ngặt, đòi hỏi người thực hành Trà đạo phải học hành và thực tập thành thạo nếu muốn trở thành trà tượng, trà sư. Nguyên tắc chung là lấy cái đẹp làm đầu. Đến củi dùng đun nước pha trà cũng phải được chặt chéo và cố giữ nguyên vẹn vỏ cây, làm sao khi cháy trong lò củi vẫn giữ được vẻ đẹp thiên nhiên của nó. Cách bày biện hoa nơi phòng trà phải theo một số quy tắc – có sự thay đổi ít nhiều tùy theo môn phái trà, nhưng nói chung là chọn hoa theo mùa, trình bày trang nhã song không đơn điệu hay trùng lặp. “Hãy bày hoa như thể hoa vẫn sống nơi đồng nội” – lời tổ sư Rikyiu. Tại chương Hoa trong Trà thư, tác giả Kazuko Okakura nói kỹ về câu chuyện này. 

Kei (kính) thể hiện hòa trên bình diện ứng xử cá nhân. Nó cũng đòi hỏi trước hết trang trọng và khiêm cung. Tại chương Thưởng ngoạn nghệ thuật tác giả Kazuko Okakura minh họa rất khéo chữ kính của Trà đạo bằng một biểu tượng rút từ tích xưa về Cây đàn đợi chủ. Tư duy nghệ thuật của Đạo cho rằng cái đẹp tồn tại ở cái nhìn của người thưởng ngoạn nghệ thuật. Kính thể hiện ở chỗ người và người thật lòng tôn kính lẫn nhau; mọi người phải tôn kính thiên nhiên như tự nó tồn tại, chớ nên can thiệp thô bạo vào. Giai thoại sau đây về Sen Sotan, một đại trà sư trứ danh khác thời xưa, minh họa điểm này. Một hôm, nhà sư trụ trì chùa Daito sai một chú tiểu mang tặng ông bạn trà một cành hoa trà rất đẹp. Dọc đường chú tiểu sơ ý làm rụng mất đóa hoa lớn nhất. Cân nhắc hồi lâu, chú quyết định mang cành hoa cùng với đóa hoa rụng đến dâng trà sư với lời tạ lỗi. Cách ứng xử của chú tiểu chứng tỏ chú biết tôn kính một vật tầm thường là bông hoa rụng. Trà sư Sen Sotan đón nhận cành hoa, cho vào cái lọ đẹp nhất và treo nơi trang trọng trong trà thất, rồi đặt bông hoa rụng xuống dưới sàn. Nhờ chữ kính của cả hai thầy trò, cành trà hoa vẫn tự nhiên như nhiên trong trà thất, tựa không có chuyện gì xảy ra. 

Về cơ bản, Trà đạo là sự thực hành quan niệm: hãy cố gắng nhìn đời cho đúng thực chất của nó. Con người phải vất bỏ cái lăng kính được tạo nên bởi những tập tục và định kiến xã hội làm méo mó vạn vật. Trong thực tế, các dụng cụ dùng vào lễ thức trà đều có vẻ đẹp tinh tế, song không một vật nào vốn là những sản phẩm được tạo nên để trở thành “tác phẩm mỹ thuật”, chúng không được làm ra để phô trương nghệ thuật mà chỉ để dùng sao cho hài hòa với cái đẹp chung quanh. Quan sát kỹ, ta sẽ thấy dụng cụ pha trà những dịp trang trọng nhất cũng vẫn là những vật dụng thông thường của cuộc sống thường ngày. Biết coi trọng những vật dụng tầm thường nhất, con người sẽ nhận ra cái đẹp nơi chúng. 

tin180.com/wp-content/blogs.dir/6/files/2010/03/Tu-Tra-da… 

Pha trà 

Trong quan hệ xã hội, kính đòi hỏi con người trân trọng người khác, không nuôi ác ý, tà tâm đối với đồng loại, cố gắng vượt qua mọi toan tính ganh đua. Mỗi lần tiếp khách, là mỗi lần chủ nhân phải tự coi như đây là cơ hội duy nhất trong đời có được vinh dự này. Còn khách, khi đón nhận chén trà từ tay cung kính của chủ nhân, hãy xoay chiếc chén đúng một vòng trong đôi bàn tay khum lại của mình, cử chỉ này không chỉ tỏ lòng kính trọng chủ nhân mà là tôn kính cả chiếc chén đang cầm, trong khi lòng dặn lòng hôm nay ta có được niệm vui uống ngụm chè này, trong chiếc chén này, tại trà thất này, cùng với những người bạn này, đây là cơ hội duy nhất của đời ta; niềm vui này, vinh dự này, khung cảnh này sẽ không lặp lại lần thứ hai. 

Tương truyền chính sư phụ của đại trà sư Rikyiu đã dạy ông điều đó, qua mấy câu thơ mà cụ vẫn thích ngâm nga, tạm dịch ý như sau: Từ lúc đặt chân lên lối đi trong vườn (roji) để tới trà thất/ Cho đến khi giã từ/ Bạn hãy hết sức kính nhường chủ nhân/ Không một phút được quên/ Cuộc gặp gỡ hôm nay/ Là cơ hội duy nhất của đời mình. Trong cuộc sống hằng ngày, giá mọi giao tiếp giữa người và người đều được đặt trên nền tảng ấy thì cuộc đời tốt đẹp xiết bao. 

Sei (tinh) không chỉ là đặc điểm quán xuyến Lễ thức trà mà là một nét đẹp rất đặc trưng trong lối sống của người Nhật, bắt nguồn từ ảnh hưởng của Thần đạo. Trà thất trông thô sơ, thanh bần vậy mà cực kỳ sạch sẽ. Khi tiến hành Lễ thức trà, tuyệt nhiên không thể tìm thấy ở đâu trong trà thất hay mọi vật dụng một hạt bụi. Hơn thế, còn phải đốt trầm thơm xông gian phòng cho tinh khiết trước khi rước khách vào. Con đường roji băng qua vườn dẫn tới trà thất cũng hết sức sạch sẽ, sạch sẽ mà vẫn tự nhiên như tác giả Kakuzo Okakura đã mô tả trong sách và cụ thể hóa qua giai thoại vị đại trà sư với người con trai được giao nhiệm vụ quét con đường. Bởi con đường ấy còn tượng trưng cái nẻo mà người đời ai cũng sẽ phải trải qua để đi vào một thế giới khác. Và muốn vào được chốn tinh khiết vĩnh hằng, lẽ đương nhiên con người phải gột sạch bụi trần. 

Jaku (mịch) không chỉ là cảnh tịch mịch tạo nên nơi trà thất. Phòng trà dù làm riêng tại một góc khiêm nhường trong một khuôn viên tòa lâu đài lộng lẫy, hay chỉ một ngăn nhỏ giản đơn trong ngôi nhà ở bình thường đều phải làm sao tạo được sự tĩnh mịch. Khách cũng phải cùng tạo nên môi trường ấy. Không ai nói to trong trà thất. Không ai ngỏ lời khi một bạn đang thưởng thức chén trà. Mọi cử chỉ đều có sự cân nhắc. 

Mịch của Trà đạo không chỉ là sự thể hiện trong khoảnh khắc ngắn ngủi tại một nới gặp gỡ tạm thời, mà là ước vọng tạo nên một cuộc sống luôn yên tĩnh, thanh bình. Nó thể hiện quan niệm Phật giáo về Niết bàn. Tổ sư Rikyiu nói rõ điểm này: “Lễ thức Trà trước hết phải tiến hành cho đúng lời Phật dạy. Vui thích vì được sống trong dinh thự cao sang hay thường xuyên thưởng thức của ngon vật lạ, những chuyện ấy đều thuộc về cuộc sống trần tục. Mọi nơi ở đều tốt chỉ cần có được một tấm mái che năng mưa, không bị gió thổi bay, mọi thức ăn đều là đủ nếu nó giúp con người không phải chết đói. Môn đồ Trà đạo gom mấy khúc củi và đun sôi nước. Rồi dâng cúng Phật, sau đó mời bạn bè, và mình là người thưởng thức sau cùng. Trước đó, hãy bày mấy cành hoa và đốt lên mấy mảnh trầm…” 

tin180.com/wp-content/blogs.dir/6/files/2010/03/Tu-Tra-da… 

Dịch giả Phan Quang thưởng thức trà tại cố đô Kyoto- Nhật Bản 

Tại chương nói về Phòng trà, Kakuzo Okakura đã luận rất hay về nếp nhà Không Hoàn hảo. Theo tinh thần Đạo cũng như Thiền, người ta chỉ có thể nhìn thấy cái đẹp đích thực nơi cái không hoàn hảo, cái dở dang. Bởi sinh lực của đời và của cái đẹp là ở khả năng tiếp tục phát triển của nó, ở chỗ nó luôn vươn tới sự hoàn thiện. Vẫn theo lý giải của trà sư Sen Soshitsu XV, từ thế kỷ XIV, tác phẩm Luận về nhàn (1331) đã viết: “Làm bất kỳ vật gì, không nên chuộng sự hoàn tất. Chỉ những gì còn dở dang mới khiến người ta lưu ý”. 

2. Học giả Kazuko Okakura và Trà thư 

Một trăm năm đã qua kể từ lần xuất bản đầu, Trà thư của Kakuzo Okakura (The book of Tea – Bản dịch của Phan Quang, Nhà xuất bản Văn học 2009) là tác phẩm quan trọng giúp người nước ngoài hiểu Trà đạo và thông qua Trà đạo, cốt tủy của văn hóa Nhật Bản, cho dù sau ông đã có thêm nhiều công trình nghiên cứu sâu vấn đề này. Lý do không đơn thuần tại đây là tác phẩm đầu tiên, mà chủ yếu ở nội dung sâu sắc và chất gợi cảm của nó. Ngay lần đầu đọc cho một số thính giả chọn lọc nghe tại nhà bà Gardner, nhiều người đã đi từ ngạc nhiên tới thán phục. Cuốn sách được truyền tay từ người này sang người khác và hầu như ai đọc cũng cho đây là một bí quyết giúp họ khám phá hoặc hiểu sâu hơn phương Đông. Lối trình bày tinh tế với giọng nói tâm tình và lời văn chọn lọc cuốn hút người nghe. 

Trà thư đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, và qua một trăm năm, vẫn có người thích chuyển ngữ theo nhận thức và rung cảm của riêng mình. Các dịch giả đều rà soát chỉnh lý cẩn thận các bản dịch đã công bố của mình trước khi cho tái bản. Có thể coi như thỉnh thoảng lại ra đời một bản dịch mới. Trà thư bản tiếng Việt (với đầu đề Trà đạo) đã có hơn bốn mươi năm trước đây. Riêng các bản dịch tiếng Pháp, chúng tôi có trong tay bốn, năm bản khác nhau, trong đó có hai bản mới in năm 2007 và 2008. 

Học giả Kakuzo Okakura, tác giả cuốn Trà thư, ra đời tại một ngôi làng nhỏ gần hải cảng Yokohama năm 1862, đúng 

tin180.com/wp-content/blogs.dir/6/files/2010/03/Tu-Tra-da… 

Học giả Kakuzo Okakura 

vào lúc nước Nhật Bản bừng tỉnh sau mấy trăm năm tự biệt lập với thế giới. Trước đó không lâu, năm 1860, hạm đội Mỹ do hải quân đô đốc Perry chỉ huy nhân danh tổng thống Mỹ tống đạt tối hậu thư đòi Nhật Bản phải khai thông hải cảng Tokyo cho giao thương quốc tế. Đây là một đòn đánh thẳng vào lòng tự trọng dân tộc của Nhật Bản đồng thời qua đó nêu một tấm gương sức mạnh của công nghiệp hóa, kích thích Nhật Bản tự đổi mình và duy tân đất nước. 

Từ một ngôi làng nhỏ của dân chài, Yokohama mau chóng trở thành một thương cảng sầm uất, tấp nập đi lại kiều dân nước ngoài. Thân sinh Kakuzo vốn là một samurai cao cấp(Võ sĩ đạo) chẳng bao lâu trở thành một thương gia giàu có nhờ buôn bán lụa tơ tằm sản xuất ngay tại làng quê mình, mà khách hàng chủ yếu là người Mỹ, người Âu. Cậu bé Kakuzo được học tiếng Anh rất sớm, và làm quen với sinh hoạt Tây phương. Được thụ giáo trực tiếp với các thầy nước ngoài, lên chín cậu bé đã nói thành thạo tiếng Anh, và đến năm 15 tuổi sẽ trở thành một trong những sinh viên đầu tiên của Đại học Hoàng gia Tokyo vừa thành lập năm 1877, một trường chuyên học về văn hóa, khoa học phương Tây và giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh hoàn toàn do các giáo sư nước ngoài đảm trách. Chắc hẳn cậu sinh viên nổi bật về ngoại ngữ, cho nên được cử luôn làm trợ lý phiên dịch giúp nhiều giáo sư. Thành công của Trà thư trước hết là nó được tác giả viết bằng tiếng Anh chuẩn mực chẳng mấy khác một người Anh chính cống. Hơn thế, tác giả lại tỏ ra rất am tường văn hóa cổ điển Âu Tây. 

Tuy nhiên Kakuzo Okakura không chỉ đăm đăm hướng mắt nhìn về văn hóa Âu Mỹ như phần đông thanh niên, học sinh Nhật thời bấy giờ. Song song với Anh ngữ, cậu bé được học Hoa ngữ cổ điển (chữ Hán). Sau khi thân mẫu qua đời vào lúc cậu lên tám, người cha lấy vợ khác, cậu được đưa vào trú học bảy năm liền tại một chùa Phật học. Tại đây cậu học sách sách kinh điển Trung Hoa dưới sự dìu dắt của sư cụ trụ trì. Những hiểu biết khá sâu của Kakuzo Okakura về Lão Trang và Khổng Mạnh, về Phật và Thiền, về Đạo và Thần, về văn học Trung Hoa và kinh bổn Phật giáo sau này thể hiện trong Trà thư hẳn do cậu bắt đầu thu nhận được từ thời này. 

tin180.com/wp-content/blogs.dir/6/files/2010/03/Tu-Tra-da… 

Sách Trà thư, dịch giả: Phan  do NXB Văn học ấn hành 

Nhân tố thứ ba làm nên thành công của Trà thư là sự am tường của tác giả về nghệ thuật và thi ca cổ truyền Nhật Bản. Kakuzo Okakura bắt đầu học hội họa Nhật từ năm mười bốn tuổi, đồng thời tham dự đều đặn các lớp dạy sáng tác thi, từ cổ điển bằng chữ Hán theo mẫu Đường, Tống. Cái vốn kiến thức phong phú và đa dạng ấy biểu hiện rõ tại Trà thư. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu về Kakuzo Okakura đều nhất trí bước ngoặt quyết định trong đời ông, giúp ông phát huy được các sở trường của mình là cơ hội gặp và cộng tác với học giả lỗi lạc người Mỹ Ernst Fenollosa. Học giả này được người Nhật tri ân do những cống hiến của ông trong việc vận động bảo tồn và phát huy văn hóa, nghệ thuật cổ truyền Nhật Bản đúng vào thời nước này đang lâm vào căn bệnh ấu trĩ lúc khởi đầu sự nghiệp duy tân, là xu hướng thời thượng nhất nhất sùng bái phương Tây, đi đến rẻ rúng quá khứ với một nền văn hiến đặc sắc của chính dân tộc mình. Ernst Fenollosa được cử sang giảng dạy triết học tại Đại học Hoàng gia Tokyo năm 1878. Lúc này ông mới 26 tuổi. 

Đến Tokyo, ông đam mê nghệ thuật và kiến trúc Nhật Bản. Được sự cộng tác của Kakuzo Okakura một người thành thạo Anh ngữ lại có kiến thức tương đối toàn diện – cậu sinh viên vừa làm thông ngôn trong giao tiếp vừa phiên dịch các văn bản cổ giúp thầy – Fenollosa đi sâu nghiên cứu văn hóa, nghệ thuật Nhật Bản. Luôn luôn có Kakuzo Okakura bên cạnh, ông lùng xục khắp các hiệu sách và cửa hàng đồ cổ Nhật, sưu tập sách báo bàn về mỹ học Nhật Bản, lại khuyến khích những người bạn giàu có chọn mua những tác phẩm nghệ thuật cổ truyền tiêu biểu của nước này. Sau khi trang bị cho mình cái vốn tri thức cần thiết, và vẫn có Kakuzo Okakura làm trợ lý, ông bắt đầu thực hiện một loạt giảng thuyết về nghệ thuật Nhật Bản, đánh động dư luận xã hội và thức tỉnh giới cầm quyền bản địa. Kakuzo Okakura tốt nghiệp đại học, hai thầy trò càng cộng tác gắn bó với nhau. Họ tìm cách tạo sức ép, đòi hỏi nhà cầm quyền có chính sách và giải pháp bảo tồn di sản văn hóa. Một Ủy ban Nhà nước được chính phủ Nhật thành lập với nhiệm vụ kiểm kê, giám sát, bảo tồn kho tàng di sản văn hóa tại các chùa chiền Phật giáo và điện thờ Thần đạo. Cả hai thầy trò, Ernst Fenollosa và Kakuzo Okakura, đều được cử làm thành viên ủy ban này. 

Mới ngoài 20 tuổi, Kakuzo Okakura đã được trao nhiệm vụ cùng với Ernst Fenollosa giám sát công việc của các nhà sư chùa Horyuji nhằm khôi phục, trùng tu một thiền viện ở Nara (Thành phố nhỏ gần Kyoto, kinh đô đầu tiên của vương quốc Nhật Bản thế kỷ VIII) bị bỏ hoang phế lâu đời. Nhiều tác phẩm nghệ thuật quý hiếm được phát hiện trong díp này, đặc biệt một pho tượng Phật cổ chưa ai nhìn thấy suốt hai thế kỷ qua. Một điều hiếm thấy – hay là sự sắp xếp có thủy có chung của lịch sử? – là sau khi đã bôn ba nhiều năm ở nước ngoài, chính Kakuzo Okakura về cuối đời lại được giao phó công việc khôi phục các bức tranh tường cổ ngay tại thiền viện này. 

Thông qua Fenollosa, Okakura kết thân với nhiều người Mỹ, trong số đó có một nhà sưu tập tác phẩm nghệ thuật tên là William S. Bigelow, bộ sưu tập cực kỳ quý giá của ông này sẽ trở thành nòng cốt cho phần nghệ thuật Á châu tại Viện bảo tàng Mỹ thuật thành phố Boston (Mỹ) thành lập về sau. Một người Mỹ khác là bà Isabelle S. Gardner. Chính tại ngôi nhà của bà ở ngoại ô thành phố Boston, lần đầu tiên Kakuzo Okakura đọc cho các quan khách chủ yếu là trí thức và văn nghệ sĩ Mỹ nghe tác phẩm Trà thư vừa được viết xong, năm 1905. 

Đam mê nghệ thuật cổ truyền nhưng Kakuzo Okakura không phải là một người chơi đồ cổ. Ông quan tâm nhiều hơn đến “nghệ thuật sống” bất cứ thuộc thời đại nào. Ông từng có nhiều chuyến du khảo tại Nhật Bản và đến cả Trung Quốc, Ấn Độ nhằm tìm hiểu nghệ thuật Á châu. 

Sau khi nhận học vị tiến sĩ, Kakuzo Okakura được giao nhiều công việc thuộc lĩnh vực nghệ thuật học. Ông được chính phủ Nhật phó thác trách nhiệm thành lập và làm hiệu trưởng một Trường mỹ thuật quốc gia, đồng thời làm Quản thủ Viện bảo tàng của Hoàng cung Nhật. Năm 36 tuổi, ra khỏi bộ máy chính quyền, ông thành lập một trường nghệ thuật tư, nhiều sinh viên bỏ trường quốc gia để theo học, tuy nhiên công việc điều hành nhà trường không mấy thành công. Ông sang Ấn Độ rồi đến Mỹ năm 1904. Tại đây ông nhận làm cố vấn cho Cục Nghệ thuật Trung Hoa và Nhật Bản thuộc Viện bảo tàng thành phố Boston. Cộng tác với viện này, ông có dịp nhiều lần đi công cán tại châu Âu, Trung Quốc, Ấn Độ và trở về cả Nhật Bản, nhờ vậy càng tích lũy thêm kiến thức. 

Trong một kỳ về nghỉ hè tại cố hương, ông nảy ra ý viết cuốn Trà thư. Mặc dù bản thân không phải là một trà sư thực thụ, ông muốn thông qua Trà đạo trình bày tổng quát quan điểm Á châu về nghệ thuật, và đã có những phát kiến đặc sắc, chẳng hạn tinh thần thực sự dân chủ của châu Á thể hiện cụ thể qua Lễ thức trà. Kakuzo Okakura học tập phương Tây, làm việc ở phương Tây, nhưng ông phản đối chủ nghĩa tôn sùng công nghiệp và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. 

Kakuzo Okakura qua đời tại Akakura (Nhật Bản) năm 1913. Ngoài Trà thư, ông để lại nhiều thiên tiểu luận về mỹ thuật và một số tác phẩm khác in trước Trà thư, như Các lý tưởng của phương Đông, Sự thức tỉnh của Nhật Bản, Con cáo trắng… tất cả đều viết bằng tiếng Anh./ 

Phan Quang 

(theo vovnews) 
(source: tin180.com/vanhoa/?p=21014 )

[yourchannel user=”CNN” search=”Trà Đạo Nhật bản”]

Thêm Vài Nét Chấm Phá Trong Thơ

Sau khi đọc bài “Vài Nét Chấm Phá Trong Thơ”, một vài bằng hữu phẩm bình rằng bài viết của tôi kết thúc vội vàng quá, khiến cái hay của Bạch Cư Dị, …. nhà thơ đi gần với con người trong những trạng huống tột cùng của sự thương cảm và bạc mệnh, không được miêu tả rõ để thành nét chấm phá đẹp trong thợ.
Ngoài ra, tiến trình của Thơ từ Đường Luật cổ thể, đến cận thể, rồi sau khi du nhập nước ta và sống với dân tộc ta hằng mấy thế kỷ, chịu ảnh hưởng của Pháp, chuyển qua loại thơ mới, thơ tự do (hiện đại) v.v… chưa được trình bày một cách có thống hệ để người đọc thấy được màu sắc riêng biệt của các nét chấm phá nàỵ Mấy lời góp ý nghe rất chí lý, nên tôi vẽ vài chấm phá nữa, để bức tranh thơ thêm nét cho dễ nhận ra, cho đẹp thêm, chứ không định sắp xếp thơ theo tiến trình thời gian và khuynh hướng, vì theo tôi, việc làm đó là việc làm của các nhà biên khảo văn học sử, cần thật nhiều trang báo, trang sách mới hình thành nổị Mà biết đâu, khi vô tình vẽ lên những nét chấm phá như vậy, bức tranh tự nhiên được sắp xếp theo từng màu sắc riêng biệt, có khi hòa hợp, có khi tự cô lập hẳn ra không chừng. Ngôn ngữ thơ văn là tiếng nói phát xuất từ nội tâm, có những luật lệ không luật lệ, những suy niệm không luận lý, nên có khi nói ít mà đạt nhiều, có khi nói tràng giang đại hải mà cô đọng lại chỉ có đôi câụ Thời gian, khuynh hướng thì có thống hệ, cảm-xúc với cái hay cái đẹp đến từ thơ biết lấy gì làm khuôn mẫủ Thôi thì chúng ta cứ để lòng rung động tiếp với những vần thơ… và nếu lữ bị lạc vào một thống hệ nào đó thì cũng chỉ là sự ngẫu nhiên…

1) Chấm Phá: Bạch Cư Dị 

Quả thật bài “Tì Bà Hành” của Bạch Cư Dị,nhà thơ có chiều hướng hiện thực và xã hội, sáu tuổi biết làm thơ, chín tuổi rành vần luật, hai mươi tám tuổi đỗ tiến sĩ, tư tưởng có phần giống tư tưởng trong thơ của Đỗ Phủ, thật hay,thật cảm đô.ng. Cuộc đời của Bạch Cư Dị tương đối may mắn hơn Đỗ Phủ về đường quan lộ; nhưng có đôi lúc cũng gặp nhiều chông gaị Ông là nhà thơ kiêm chính trị gia, mang lý tưởng kiêm tế thiên hạ (che chở cho thiên hạ), nên thơ ông thường chỉ trích sự bất công, áp bức của chế độ phong kiến, của kẻ thống trị, đồng thời phơi bày những cái xấu xa của xã hộị Trong tư tưởng này, năm 16 tuổi, ông đã nỗi tiếng với bài thơ tựa đề là “Thảo” (Cỏ), làm theo thể Ngũ ngôn đường luật:

Thảo

“Li li nguyên thượng thảo,
Nhất tuế nhất khô vinh.
Dã hỏa thiêu bất tận,
Xuân phong xuy hựu sinh.
Viễn phương xâm cổ đạo,
Tính thúy tiếp hoang thành.
Hựu tống vương-tôn khứ,
Thê thê mãn biệt tình”

Trần Trọng Kim dịch:

Cỏ

“Cỏ kia chằng chịt trên gò
Một năm thay đổi vinh khô một lần.
Lửa đồng đốt chẳng trừ căn,
Lại lên mơn-mởn khi xuân trở về.
Thơm xa ngào ngạt lối đi,
Màu xanh lấp-lánh tiếp kề thành hoang.
Lại đưa du khách lên đường,
Tốt tươi, xiết nỗi đoạn trường phân li.”

Bài thơ phần trên (bốn câu đầu) nói cây cỏ trừ thế nào cũng không hết. Cỏ có đốt đi, khi xuân về, cỏ lại tốt tươị Ý phần này cho thấy, Bạch Cư Dị ví cỏ dại như kẻ tiểu nhân, có thế lực mạnh, khó mà trừ cho tuyệt gốc được. Phần sau (bốn câu sau) ông dùng kỷ thuật tương phản để tả cái đẹp của cỏ khiến người ta yêu, không đành lòng cắt bỏ; vì vậy mà gây ra không biết bao nhiêu sự đau buồn, rắc rối, phát sinh từ mâu thuẫn nàỵ Bọn tiểu nhân cũng vậy, tuy hãm hại người ngay, nhưng khéo lấy lòng vua và kẻ trên, nên được vua và kẻ trên yêu mến, không dứt bỏ dễ dàng.
Bài thơ tuy lấy chủ đề là tống biệt, nhưng lại mượn cỏ dại để ví với bọn tiểu nhân và quan lại hủ bại một cách tài tình. Văn phong trong sáng, ẩn dụ dễ suy, hay đến nỗi Cố Huống khi đọc bài thơ đã phải thốt lên: “Kẻ có tài như vậy, cuộc sống sẽ khó khăn biết nhường nào”. Lời tiên tri của Cổ Huống thật không sai, vì trên đường quan lộ, Bạch Cư Dị đã tiếp tục mạnh dạn nói lên những điều người đời chưa dám nói, nên bị các quan cả văn lẫn võ thù ghét, xàm tấu lên vua, vu cáo ông là kẻ có tội xúc xiểm với vua, khiến ông bị giáng ra làm chức Tư-Mã ở quận Cửu-Giang. Nhờ biến cố này và nhờ ở đây, ông đã viết bài “Tỳ Bà Hành” nổi tiếng. Bài thơ này không những nói lên nỗi bất hạnh của người ca nữ, mà còn biểu lộ được tâm trạng bi ai của chính bản thân ông. 
Bạch Cư Dị khéo kết hợp cảnh ngộ của mình với số phận hẩm hiu của người ca nữ, khiến tình tiết và ý tứ bài thơ trở nên sâu sắc lạ thường. Nội dung bài thơ thuật lại chuyện nhân dịp đi tiễn khách ở bến Tầm Dương, Bạch Cư Dị nghe được tiếng đàn Tỳ Bà tuyệt vời trổi lên giữa đêm khuya từ một chiếc thuyền con. Hiếu kỳ, ông và bạn bè bơi thuyền đến hỏi mới biết được tiếng đàn đó là tiếng đàn của một người ca nữ ở đất Trường An. 
Nàng học đàn Tỳ Bà với hai thiên tài âm nhạc họ Mục và họ Tàọ Vì tuổi cao và sắc đẹp phôi pha, nàng kết nghĩa vợ chồng với một người lái buôn. Bạch Cư Dị bảo nàng đánh đàn, nàng vâng lờị Sau khi tiếng đàn dứt, mọi người hồn đang lâng lâng thì nàng ca nữ tỉ tê kể lại quảng đời thanh xuân dập dìu tài tử giai nhân của mình. 
Nay, mọi thứ đó đã hết, chỉ còn lại thân hình tiều tụy, lưu lạc, nổi trôi trên các dòng sông sau khi gá nghĩa với một gã lái buôn tầm thường. Nỗi ai oán này có khác chi mối hận lòng của Bạch Cư Dị! Rồi Bạch Cư Dị mời nàng ca nữ so giây thêm lần nữa,và sau khi tiếng đàn ai oán của nàng vừa chấm dứt, tất cả mọi người, nhất là Tư Mã Bạch Cư Dị, đều sụt sùi rơi lê..
Bài thơ của Bạch Cư Dị nổi tiếng đến độ họa sĩ thời đó đã vẽ lại cảnh gặp gỡ này thành tranh. Tương truyền rằng vua nhà Thanh đã tặng bức họa đó cho vua nước tạ Đặc sắc nhất trong nghệ thuật miêu tả của “Tỳ Bà Hành” là cách miêu tả tiếng đàn. Một đặc sắc nữa là qua lời dịch theo thể thơ song thất lục bát của Phan Huy Vịnh (có sách ghi là Phan Huy Thực), bài “Tỳ Bà Hành” trở nên một tác phẩm tiếng Việt có giá trị cũng như bản dịch “Chinh Phụ Ngâm” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm vậỵ Tôi có xem qua bản dịch theo thể lục bát của Trần Trọng Kim, thấy không đặc sắc và hay như bản dịch của Phan Huy Vịnh, nên các câu thơ trích dẫn trong bài viết hoàn toàn dựa theo bản dịch của nhà học giả nàỵ Đặc điểm nghệ thuật của “Tỳ Bà Hành” là bài thơ theo thể Thất Ngôn trường thiên cổ phong với câu nhịp đôi bình lẻ ở trước và nhịp lẻ sau cùng, theo cấu trúc:

2+2+3
2+2+3
2+2+3
2+2+3

như trong bốn câu đầu của bài thơ:

“Tầm Dương/ giang đầu/ dạ tống khách
Phong diệp/ địch hoa/ thu sắt sắt
Chủ nhân/ hạ mã/ khách tại thuyền
Cử tửu/ dục ẩm/ vô quan huyền”

Nhưng khi dịch sang tiếng Việt, theo thể Song Thất Lục Bát, nhịp điệu đổi thành:

3+2+2
3+2+2
1+2+1+2
4+4

như:
“Bến Tầm Dương/ canh khuya/ đưa khách
Quạnh hơi thu/ lau lách/ đìu hiu
Người/ xuống ngựa/ khách/ dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn/ nhớ chiều trúc ti”

Nhịp điệu thay đổi khiến lời thơ uyển chuyển, thoải mái, cộng thêm yêu vận, làm giọng thơ nhẹ nhàng êm ái hơn. Như đã nói ở trên, tác giả Chinh Phụ Ngâm bằng chữ Hán là Đặng Trần Côn; nhưng qua tài dịch điêu luyện và tài tình theo thể Song Thất Lục Bát của đệ nhất nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người yêu thơ không còn nhớ nhiều tới nguyên bản nữa, mà ngược lại trân trọng bản dịch, xem bản dịch như tác phẩm riêng của nữ sĩ. 
Bài “Tỳ Bà Hành” cũng vậỵ Người ta gần như quên nguyên bản chữ Hán, dù nguyên bản rất hay, mà nhớ nhiều tới bản dịch của Phan Huy Vịnh. chẳng hạn hai câu:

“Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu”

Theo người Việt chúng ta, nghe hoang vu, vắng vẻ, buồn và đìu hiu hơn nguyên bản chữ Nho với cước vận trắc:

“Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt”

Phải không? Đến tiếng đờn, Bạch Cư Dị, với bút pháp tuyệt vời, tạo cho người đọc một cảm nhận về âm thanh trầm bổng, ai oán, lâm ly và tình tứ, kể lể. Trước đó, người ta đã ái mộ hiệu quả tiếng đờn của Lý Quân Ngọc làm cho:

“Tọa thượng mỹ nhân tâm tận trí
Tôn tiền lữ khách lệ nan thu”
(Người đẹp ngồi ở trên lòng buồn như chêt, và lữ khách đứng ở trước lệ rơi khó ngừng). 
Nay qua mấy câu thơ tả tiếng đàn Tỳ Bà:

“Giây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non giây nhỏ khác nào chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẫy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châụ
Trong hoa oanh ríu rít nhau,
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Nước suối lạnh giây mành ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tợ
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng haỵ
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,
Ngựa sắt giông xô xát tiếng đao.
Cung đàn lựa lúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn giây”

Chúng ta thấy Bạch Cư Dị đã gói ghém được tình cảnh và tâm trạng của nhiều con người khác nhau, trong đó có tâm trạng của chính tác giả nữa, và tâm trạng này hao hao giống tâm trạng của người ca nữ tài ba trên bến Tầm Dương. 
Một đằng vì nhan sắc tàn phai, bị đời rẻ rúng, một đằng tài cao mà vì tánh bộc trực, đã bị gian thần hãm hại đến nỗi bị giáng chức đọa đàỵ Cho nên trong đêm khuya vắng vẻ, giây to như mưa rào, giây nhỏ như thầm thì chuyện riêng mang đến nỗi buồn áo não cho cả hai.
Rồi hình ảnh mâm ngọc tạo cho tiếng đàn réo rắt, hình ảnh chim oanh ríu rít trong hoa, cộng với âm thanh róc rách của nước chảy trong thơ làm tăng thêm cảm giác day dứt, ngậm ngùi cho người đọc. 
Bạch Cư Dị còn khéo léo hơn nữa trong việc tả cảnh; và với ngòi bút của Phan Huy Vịnh, cảnh và tình đan quyện lẫn nhau một cách tài tình như sáu câu thơ sau:

“Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoạ
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua,
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng baỵ
Nghe não nuột mấy giây buồn bực,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu”

Không những chỉ riêng thi sĩ Vũ Hoàng Chương, bị rung động trước cái tình, cái cảnh của “Tỳ Bà Hành”, sáng tác bài Thất Ngôn Bát Cú: “Nghe Hát” mà tôi đã đề cập đến trong bài viết: “Vài Nét Chấm Phá Trong Thơ”, và nhà thơ Xuân Diệu cũng bị ảnh hưởng, sáng tác bản: “Nguyệt Ca” rất haỵ Bài đó như vầy:

Nguyệt Ca
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình 
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuệ”

Trong bài thơ chỉ có một câu duy nhất nhắc đến bến Tầm Dương. Câu đó là: “Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”. Tuy vậy, toàn bài, đọc lên vẫn nghe man mác như tiếng đờn tỳ bà; người, vật như tương tư và giao nhau.

2) Chấm Phá: Thôi Hiệu:

Thơ Đường còn không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác và thi hào thì nhiều vô số trong đó Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu là những nhà thơ nổi tiếng nhất thời này. Nhắc đến Thôi Hiệu, chúng ta không thể không nhớ bài “Hoàng Hạc Lâu” của ông, được Lý Bạch thán phục cho là “Đường thi thất luật chi thủ” (Đứng đầu thơ Đường thất luật). Bài thơ này được nhiều thi sĩ nổi danh của ta dịch thành thơ tiếng Việt. 

Hoàng Hạc Lâu

“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du dụ
Tình xuyên lịch lịch Hánđương thụ;
Phương thảo thê thê Anh-vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

Dịch nghĩa:

Người xưa đã cưỡi hạc vàng đi rồi
Nơi này chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc
(hoặc có nghĩa là: Nơi này còn lại lầu
Hoàng Hạc trống không)
Hạc vàng một khi đã bay đi, không bao giờ
trở lại
Mây trắng ngàn năm còn bay chơi vơi
Bên đồng bằng đất Hán Dương, những hàng
cây rực rỡ.
(có bản dịch là: Hàng cây đất Hán Dương phản chiếu rõ mồn một trên dòng sông tạnh).

Trên bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn xanh tươi
Chiều tối tự hỏi quê nhà ở nơi đâu
Khói và sóng trên sông khiến người u sầu

Bản dịch của Trần Trọng Kim:

“Người đi cỡi hạc từ xưa,
Đất này Hoàng-hạc còn lưa một lầu,
Hạc vàng đi mất đã lâu,
Ngàn năm mây trắng một màu mênh-mông.
Hán Dương cây bóng lòng sông,
Bãi kia Anh-Vũ, cỏ trông xanh rì,
Chiều hôm lai láng lòng quê,
Khói bay sóng vỗ, ủ-ê nỗi sầu”

Bản dịch của cụ Trần Trọng Kim dùng chữ “lưa” với nghĩa còn thừa, còn dư trong câu:
“Đất này Hoàng-hạc còn lưa một lầu ” có vẻ gượng ép, và hơi tối nghĩa, vì chữ “lưa” không phổ thông lắm. Có lẽ cụ dung chữ này là nhằm hợp yêu vận với chữ “xưa” của câu 1 cho đúng với âm luật của cặp thơ lục bát chăng? Chữ “trơ”, theo ý tôi, dùng thế chữ “lưa” ở đây cũng được. Còn câu: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”, giọng thơ trầm buồn và chậm mà cụ dịch là “Khói bay sóng vỗ, ủ-ê nỗi sầu”, nghe có vẻ nhanh và khuấy động khiến cảm giác u hoài và nỗi lòng sầu kín của tác giả không được diễn dịch đúng ý cho lắm, theo sự cảm nhận của người đọc. Bản dịch của Tản Đà theo thể Lục Bát:

“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bầy
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Bản dịch của Tản Đà quả thật là hay. Tuy nhiên chữ “phương thảo” trong câu: “Phương thảo thê thê Anh-vũ châu” có nghĩa là cỏ thơm, nhưng Tản Đà lại dịch là “cỏ non”, có lẽ là để cho gần vận với chữ “hôn” ở câu dướị Tản Đà có thể dịch chữ này là “cỏ thơm” để sát ý mà vần cũng không xa với chữ “hôn” là mấy, theo tôi thiết nghĩ. Câu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị” mà ông dịch và chuyển thơ thành: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn” không lột tả được cảm giác bâng khuâng chợt nhớ quê nhà của Thôi Hiệụ Câu này, Ngô Tất Tố và Trần Trọng San dịch dưới đây sát hơn và tôi thích hơn. Bản dịch của Ngô Tất Tố theo thể Thất Ngôn Bát Cú:

“Người xưa cưỡi hạc đã lên mây
Lầu Hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán ngàn cây hửng
Xanh ngút châu Anh lớp cỏ dày
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây”

Phải công nhận bản văn dịch theo thể Thất Ngôn Bát cú của cụ Ngô Tất Tố rất hay và chỉnh về thanh vận. Cũng như Tản Đà, chữ “phương thảo” không được dịch là cỏ thơm, mà dịch là cỏ dày, đổi ý của Thôi Hiệu một chút. Nhưng dịch mà! Đôi khi muốn chỉnh vần, chỉnh điệu, người dịch phải hy sinh một vài ý nhỏ để bài thơ hay thêm, miễn không làm sai lạc ý chính của toàn bài là được. Hai câu:

“Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây”

cụ dịch và chuyển thành thơ rất hay vì gây nhiều cảm xúc.

Bản dịch của Trần Trọng San theo thể Thất Ngôn Bát Cú:
“Người xưa cưỡi hạc đến nơi đâu ?
Hoàng Hạc còn đây một mái lầu
Hạc đã một đi không trở lại
Mênh mang mây trắng xóa ngàn thâu
Hánđương sông tạnh cây in sắc
Anh-vũ bờ thơm cỏ biếc màu
Chiều tối trông vời đâu cố quận
Trên sông khói sóng giục ai sầu”

Như cụ Ngô Tất Tố, bản dịch của cụ Trần Trọng San cũng theo thể Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật rất chỉnh về niêm, âm, và vận. Luật đối trong bản dịch tuy không giữ trọn vẹn, nhưng hai câu:

“Hán Dương sông tạnh cây in sắc
Anh-vũ bờ thơm cỏ biếc màu”

của cụ cũng cho ta bóng dáng đối ngữ trong hai câu Luận của bài thợ Chữ “phương thảo”
được cụ dịch là “bờ thơm” gần nghĩa với “cỏ thơm” hơn mấy bản dịch khác. Bản dịch mới nhất của Đoàn Đức Nhân theo thể Lục Bát:

“Người xưa cưỡi hạc đi rồi
Còn đây lầu hạc vắng người trống không
Hạc vàng đi biệt tăm mòng
Ngàn năm mây trắng ruổi giông ngút trời
Cây bên đồng Hán rạng ngời
Cỏ thơm Anh Vũ xanh tươi một màu
Chiều tà quê ở nơi đâu
Trên sông khói sóng khơi sầu lòng ai”

Bản dịch của Đoàn Đức Nhân đăng trong Giai phẩm Xuân Quê Mẹ năm 1992 tuy không xuất
sắc như bản dịch của Tản Đà; nhưng cũng hay và hết sức sát ý với Thôi Hiệụ Đặc điểm của Đoàn Đức Nhân là đã từng qua Trung Hoa quan sát, nghiên cứu và tham khảo thêm các sách vở in tại Bắc Kinh về lầu Hoàng Hạc nên có vài bằng chứng mà ông cho rằng xác thực để dịch bài này hơi khác với các cụ một tí trong một vài câụ Chẳng hạn như chữ “không” trong câu: “Thử địa không dư Hoàng-hạc lâu”, Đoàn Đức Nhân dịch là trống không, lầu không: “Còn đây lầu Hạc vắng người trống không”. 
Ông cho các cụ hiểu chữ “không” là “chỉ”, không sát ý với Thôi Hiệu lắm. Ông viện dẫn rằng trong câu thứ tư: “Bạch vân thiên tải không du du”, Thôi Hiệu dùng lại chữ “không” một lần nữa với ý nghĩa “trên không”, nên kết luận chữ “không” là “trống không”, sát ý nhất. Tôi không phải không đồng ý với lý luận này của ông Đoàn Đức Nhân, nhưng duyệt lại mấy lời dịch câu: “Thử địa không dư Hoàng-hạc lâu” của các cụ, tôi thấy ý trong các câu dịch tuy thoát một chút, nhưng vẫn sát với nguyên bản, vẫn cho người đọc một cảm nhận tương tư.. Trần Trọng Kim dịch là “Đất này Hoàng hạc còn lưa một lầu”. Tản Đà dịch: “Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ”. 
Ngô Tất Tố dịch: “Lầu Hạc còn suông với chốn này”. Trần Trọng San dịch: “Hoàng Hạc còn đây một mái lầu”. Tất cả các câu dịch trên của bốn cụ nói lên được vẻ hoang sơ tiêu điều, không bóng người lai vãng của lầu Hoàng Hạc, ẩn chứa được tâm trạng luyến tiếc, hoài cổ của tác giả. 
Mới ngày nào người đời còn đồn đãi tiên nhân Vương Tử An cưỡi hạc vàng tới thăm lầu rồi bay đi, và Phí Văn Vi cưỡi hạc thành tiên, bây giờ trong cảnh tịch mịch của buổi chiều, Hoàng Hạc lầu chỉ đứng trơ một mình, cô đơn như chính lòng tác giả. Câu dịch của Đoàn Đức Nhân: “Còn đây lầu Hạc vắng người trống không” cũng không khác là bao, nếu không nói là tỏ rõ quá, làm mất đi cái hương vị đẹp đẽ của tính chất ẩn dụ (métaphore) và hoán dụ (métonymie) trong thơ . 
Đoàn Đức Nhân còn đưa ra một khảo luận mới lạ để chứng minh các cụ đã hiểu sai tính chất địa lý của Tàu mà dịch chữ “xuyên” trong câu: “Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ” là “sông”. Theo ông, lầu Hoàng Hạc ở trên bờ Trường Giang, bên kia bờ có HánĐương Giang (Hán thủy) bị Quy Sơn che khuất, không có sông (xuyên) nào cả.Xuyên, Thôi Hiệu dùng đây, có nghĩa là bình địa, đồng bằng, nên câu thơ này phải hiểu là: “Bên đồng bằng đất HánĐương, những hàng cây rực rỡ” chứ không phải “Hàng cây đất Hán Dương phản chiếu rõ mồn một trên dòng sông tạnh” như các cụ diễn di.ch. 
Cho nên, trong khi Trần Trọng Kim dịch: “Hán Dương cây bóng lòng sông”, Tản Đà: “Hán Dương sông tạnh cây bầy”, Ngô Tất Tố: “Vàng gieo bến Hán ngàn cây hửng”, Trần Trọng San: “HánĐương sông tạnh cây in sắc”, thì Đoàn Đức Nhân dịch: “Cây bên đồng Hán rạng ngời”. Đây là điểm hay, một đóng góp nhỏ cho nền văn học, cần được tán dương. 
Tuy nhiên, vì câu thơ của Thôi Hiệu không tả được ý của ông đang phóng tầm mắt qua bên kia Trường Giang, nên các cụ nhầm chữ xuyên ra sông cũng là chuyện bình thường. Vì là câu tả cảnh, một sơ suất nhỏ không làm sai ý chính của toàn câu là baọ Cách đây không lâu, theo lời yêu cầu của một vài bạn trẻ, tôi có đăng trên Diễn Đàn Hoa Lư một bài thơ tôi làm thuở tuổi còn vụng dại, trong đó hai đoạn đầu là:

“Hôm đó em cười, mắt ngó tôi
Má hồng chợt ửng như màu môi
Trời đang đứng gió nhưng sao lạ !
Cây lá xôn-xao cất tiếng mời

 

Tôi bước nhưng hồn cứ ngẩn ngơ 
Bay theo đôi má đẹp như thợ
Bàn tay ao ước trôi lên tóc
Làm suối theo dòng chải ước mơ”

Chữ “chải” tôi dùng ở câu cuối trong đoạn hai của bài thơ tạo nên một cuộc tranh luận nhỏ. Có bạn cho rằng có lẽ tôi viết sai lỗi chánh tả, đổi chữ “trải” thành chữ “chải” chăng? Có bạn lại nói rằng dùng chữ “chảy” ở đây đúng hơn là chữ “trải” vì suối phải chảy, chứ “trải” hay “chải” sao được. 
Tôi phải lùng ký ức, lục lại cảm xúc của mình mấy mươi năm về trước để xem cậu con trai lúc tuổi biết yêu đó (là tôi) có cảm xúc gì mà ao ước bàn tay mình ngược dòng trôi lên suối tóc của nàng rồi thuận dòng chải ước mơ vào đó trong những cái vuốt ve, mơn trớn. Có lẽ khi được nàng ban bố cho ánh mắt, nụ cười, tôi ngẩn ngơ đi bên nàng, mắt liếc nhìn đôi má ửng đỏ đẹp như thơ mà thầm ước điều gì chăng? Một nụ hôn trên má nàng ư . 
Có thể có, nhưng xa vời quá; vả lại thời xưa, chuyện hôn nhau không phải dễ dàng như bây giờ, nên có lẽ tôi cứ thế mà rộn ràng bước đi, chứ không dám cho môi mình mọc cánh làm chuyện “kinh thiên động địa” kia . 
Rồi một vài sợi tóc của nàng, trời thương cho phất nhẹ vào mặt, khiến tôi sung sướng, sinh lòng ao ước bàn tay năm ngón “kiêu sa” của mình được đặt lên suối tóc nàng mà vuốt ve, mà chải một cách trân trọng, thương yêu như cảnh Tiểu Siêu chải tóc cho Vô Kỵ lần chót trước khi từ biệt chàng về Nga La Tư làm giáo chủ Minh Giáo trong truyện “Cô Gái Đồ Long” của Kim Dung.

Chữ “chải” tôi dùng trong câu thơ thuở đó còn hàm ý đan kết tâm tình mình vào tâm tình nàng, hay nói đúng ra, đời mình vào đời nàng. Cho nên, như đã nói từ trước, thơ không phải là văn xuôi, mà ý thường cô đọng và từ ngữ dùng cần hợp vần, hợp thanh, nên chữ dùng đôi khi tối nghĩa, tạo cảm xúc hơi khác cho mỗi người khi đọc. 
Như chữ “xuyên” của Thôi Hiệu trong câu thơ này bị hiểu lầm là sông, chữ “chải” trong câu thơ của tôi bị nghĩ là “trải” hay “chảy” cũng là chuyện thường. Tóm lại, bài “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu quả là một áng văn chương bất hủ, đến Lý Bạch còn khâm phục, huống hồ là những ngâm ông (người đọc thơ, ngâm thơ), thi ông (người làm thơ) như chúng tạ Giả Đảo cũng nhắc tới Hoàng Hạc qua hai câu thơ: 

“Thanh sơn vạn cổ trường như cựu,
Hoàng hạc hà niên khứ bất qui”

Vương Duy:
“Thành hạ thương lãng thủy,
Giang biên Hoàng Hạc lâu”

Lư Vũ Tích:
“Bất kiến Hoàng Hạc lâu
Hàn sa tuyết tương tự”

Tống Chi Văn:
“Thanh giang độ noãn nhật,
Hoàng Hạc lộng tình yên”

Đỗ Mục:
“Hoàng Hạc lâu tuyền thanh thủy khoát
Nhất lâu hoàn ức cố nhân vô”

Lý Bạch:
“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên ba tam nguyệt hạ Dương châu”,
v.v… rất haỵ Vậy cái hay của Thôi Hiệu ở chỗ nào ?

Chỉ với hai câu đầu:
“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu”

Thôi Hiệu đã vẽ lại hình ảnh Vương Tử Anh cỡi hạc vàng viếng lầu trong khung cảnh thần tiên xa xưa cộng với niềm lưu luyến của ông trước cảnh hoang sơ của Hoàng Hạc lâu bấy giờ. Một tâm trạng hoài cổ với nỗi nhớ khôn nguôi qua tiết điệu nhẹ nhàng của câu thơ đã gợi nỗi nhớ thương trong lòng người đọc mà đa số đều mang trong tâm tư niềm hoài hương sâu đậm. 
Ai mà không có một lần xa quê hương, xa nơi chôn nhao, cắt rốn của mình? Ai mà không một lần ngồi yên, hồi tưởng lại quảng đời đã qua với vui buồn lẫn lộn? Cho nên tâm sự của Thôi Hiệu cũng là tâm sự chung của chúng tạ Hai câu thơ vì vậy đã tạo nên sự cảm thông giữa thi nhân và người đọc ngay lúc khởi đầụ Rồi hai câu kế tiếp:

“Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du”

Khai triển thêm lòng lưu luyến, nhớ tiếc và nỗi u hoài không biết giải bày cùng ai của tác giả và của chúng tạ Hạc vàng đi rồi có bao giờ trở lại! Người thương chia tay, biết thuở nào tương kiến cố nhân? Giờ thì còn gì? Còn mây trắng bay vẩn vơ trên trời, còn hồi tưởng, còn đau thương.
Chúng ta dù không quen thuộc với cách phát âm thật đúng của tiếng Hán, nhưng đọc câu: “Bạch vân thiên tải không du du” chúng ta cũng cảm thấy nỗi u hoài như kéo dài ra trong thanh âm của hai chữ “du du” vừa phảng phất ý nghĩa nhàn tản, thung dung qua câu thơ:

“Nhàn vân đàm ảnh nhật du du” (bóng mây trên mặt đầm ngày bay nhàn tàn) của Vương Bột,
vừa biểu thị sự kéo dài ra xa vô cùng tận, bao trùm cả ý niệm về thời gian lẫn không gian. Bốn câu thơ khởi đầu, âm điệu thật nhẹ nhàng, thanh thoát, gợi lên trong lòng người đọc một cái gì đó man mác xa xăm, để từ đó với hai câu tiếp:

“Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ;
Phương thảo thê thê Anh-vũ châu”

Âm thanh thay đổi nặng thêm lên, trầm buồn hơn và dai dẳng hơn. Hai câu này tuy chỉ tả cảnh xung quanh lầu Hoàng Hạc, nhưng các địa danh, nhất là Anh-vũ châu đã nhắc người đọc nhớ lại bài phú nổi tiếng: “Anh Vũ Châu” của Nễ Hoành, người đã chửi vào mặt Hoàng Tổ trong khi đối ẩm, khiến Hoàng Tổ tức giận mà giết ông, làm mất đi một thiên tài trong thời tam quốc phân tranh. Nễ Hoành còn là người đứng trước miếu đường, trước mặt các quan, dám cửi truồng tồng ngồng với câu nói bất hủ:
“Cha mẹ sinh ra ta với thân thể trong sạch việc gì phải che đậy”, rồi mượn câu nói đó chỉ mặt Tào Tháo mắng là kẻ lòng dạ gian hùng, giả nhân giả nghĩa, không biết chiêu hiền đãi sĩ. 

“Phương thảo thê thê” (cỏ thơm mơn mởn) ở đây vừa nhằm tả cảnh mà có thể cũng vừa nhằm ca tụng đởm lượng anh hùng cùng văn tài của Nễ Hoành. Mượn tích Nễ Hoành để nhắc lại bài phú nổi tiếng cùng địa danh chung quanh lầu Hoàng Hạc, chỉ có bút pháp của Thôi Hiệu mới làm cho nó tiềm ẩn trong thơ hay như vậỵ 
Thơ Đường ngày xưa, thời Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, Lý Bạch v.v… khác với thơ Đường sau này, mỗi bài cần chứa một hai điển tích, đôi ba địa danh, mới giá trị, mới hay, mới đẹp, mới tăng thêm cảm xúc trong lòng người đọc. Cho nên, hai câu luận, với âm điệu nặng hơn, và dài hơn, vừa điêu luyện trong bút pháp tả cảnh, vừa vẹn toàn được cảm xúc u hoài, làm tứ thơ dạt dào thêm lên. Hai câu cuối của “Hoàng Hạc lâu”:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

Thật là tuyệt vờị Mặt trời khuất bóng, hoàng hôn trải dài, cảnh vật đìu hiu, cô quạnh, với gợn bóng nhấp nhô, khói tỏa nhè nhẹ trên sông, khiến người xa nhà chợt nhớ cố hương. Trời chiều, bãi vắng, lầu hoang. Cảnh tiêu sơ đó, với cảm xúc của thi tài Thôi Hiệu qua mấy câu thơ, càng làm cho chúng ta, những người tha hương, chạnh niềm u hoài, nhung nhớ. Không biết Huy Cận có cùng một nỗi niềm với Thôi Hiệu hay ảnh hưởng hai câu thơ cuối của Thôi Hiệu không mà đoạn cuối bài “Trường Giang” của ông:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa,
Lòng quê dờn dợn vời con nước,
không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Mang cùng hình ảnh và cảm xúc đến như vậỵ Lý Bạch với bài Thất Ngôn tuyệt cú: “Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh-Hạo-Nhiên Chi Quảng-Lăng” (Tiễn Ma.nh-Ha.o-Nhiên ở Hoàng-Hạc lâu đi Quảng-Lăng):

“Cố nhân tây từ Hoàng-Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương-châụ
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường-giang thiên tế lưu”

Trần Trọng Kim dịch:
“Phía tây bạn biệt Ha.c-lâu,
Tháng ba trẩy xuống Dương-châu thuận dòng.
Cánh buồm bóng hút màu không,
Trông xa trắng xóa nước sông bến trời”

Thật hay về bút pháp, nhưng chỉ nhắc tới tên lầu Hoàng-Hạc như nơi chốn chứ không tả rõ như Thôi Hiệụ Đỗ Mục u hoài hơn:

“Hoàng Hạc lâu tuyền thanh thủy khoát
Nhất lâu hoàn ức cố nhân vô”

Dịch:
(Nước xanh mông mênh trước lầu Hoàng-hạc,
Tòa nhà còn nhớ cố nhân không)

Nhưng không có ai đặt hết tâm sự và cảm xúc của mình vào lầu Hoàng-Hạc như Thôi Hiệu cả. Nét chấm phá của Thôi Hiệu quả thật làm tăng thêm vẻ đẹp của khung thơ. 

3) Chấm Phá: Một vài khuynh hướng
Nói đến thơ, chúng ta thường nghe các bậc thâm nho nhắc đến tập Kinh Thi của Trung Hoa do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Nghiêm Thượng Văn và Đặng Đức Tô dịch ra chữ quốc ngữ. Kinh Thi là một tập thơ cổ gồm 305 bài thơ và sáu đề mục, xuất hiện từ đời Tây Chu (khoảng thế kỷ thứ 6 trước công nguyên). 
Thơ trong Kinh Thi rất tự do, không bị bó buộc bởi niêm luật hay số chữ cho mỗi câụ Cho nên đọc kinh thi, đôi khi chúng ta có cảm tưởng như đọc thơ mới hoặc thơ tự do của Viẹt Nam. Nếu có khác với thơ mới và thơ tự do hiện đại thì cái khác đó được biểu hiện trong sự chân thật và súc tích của kinh thi so với tính chất siêu thực và khó hiểu của thơ hiện đại và một số thơ mới bây giờ.
Chúng ta thử đọc bài “Tử Khâm” (Cổ áo chàng) trong Kinh Thi:

“Tử Khâm

Thanh thanh tử khâm
Du du ngã tâm
Túng ngã bất vãng
Tử ninh bất tự âm ?

Thanh thanh tử bội
Du du ngã tâm
Túng ngã bất vãng
Tử ninh bất laỉ

Khiêu hề thoát hề
Tại thành khuyết hề
Nhất nhật bất kiến
Như tam nguyệt hề”

Dịch:
“Cổ áo chàng
Cổ áo chàng xanh xanh
Vẩn vơ em nghĩ
Nếu em không đến
Sao chàng chẳng hỏi thăm ?

Dây đeo ngọc của chàng xanh xanh
Vẩn vơ em nghĩ
Nếu em không đến
Sao chàng chẳng lại ?

Em nhẹ nhàng nhảy lên
Lầu trên thành
Một ngày không thấy chàng
Như ba tháng”

Lời thơ mộc mạc, chân thật, âm điệu ngâm lên nghe như thơ mới của tạ Nói về thơ Việt Nam, người ta không rõ thi văn xuất hiện ở nước ta từ bao giờ, chỉ biết, đến thế kỷ thứ 10, thơ văn đã thịnh hành. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn thư, bài thơ tiễn Lý Giác của Đại Sư Khuông Việt được coi như là bài thơ chữ Hán đầu tiên còn ghi dấu lại trong sử sách của nước tạ Những tác phẩm thơ văn đời Trần bị thất lạc, chỉ còn lại một số như Cư Trần Lạc Đạo Phú, Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, Giáo Tử Phú v.v… và một bài thơ nôm của Nguyễn Thị Điểm Bích với giai thoại vui vuị Điểm Bích còn có tên là Vân Bích, là cung phi thứ ba của vua Trần Anh Tông, còn gọi là Tam Nương. Mẹ của Tam Nương là Tào Thị, bị một chàng trai hãm hiếp sinh ra nàng. Vân Bích đẹp và giỏi thơ Nôm, được vua Anh Tông giao cho nhiệm vụ thử lòng sư Huyền Quang, tác giả “Vịnh Vân Yên Tự Phú”. Vân Bích kiếm cách trêu ghẹo Huyền Quang, nhưng ngài vẫn dửng dưng. Vân Bích bị chạm tự ái nên tâu dối với vua rằng Huyền Quang đã làm một bài thơ mà nàng dịch ra như sau:

“Vằng vặc trăng mai ánh nước
Hiu hiu gió rít ngân sênh
Người hòa tươi tốt, cảnh hòa lạ
Mâu Thích Ca nào thuở hữu tình”

Thực ra bài thơ của Sư Huyền Quang tuy phóng khoáng nhưng không phải vậy, bị nàng dịch
không sát nguyên văn, có phần xuyên tạc, nhằm vu cáo sư đã bị dao động trước nhan sắc của nàng. Sau vua biết được nỗi oan của sư bèn đày nàng làm thị nữ quét chùa. Truyền thuyết không nói rõ Vân Bích quét chùa nào, nhưng qua sự việc sư Huyền Quang ở gần vua, cũng có thể vua đày nàng quét chùa cho sư Huyền Quang tại kinh đô không chừng. Nếu thế thì thật là oái oăm. 
Xem như thế, sau thế kỷ thứ 10, thơ văn nước ta qua các thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần phát triển khá nhiều và phong phú. Sự thay đổi của thể thơ, tuy không nhanh như văn xuôi, nhưng cũng có nhiều tiến triển rất đáng ghi nhận. Niêm luật càng ngày càng giảm bớt đi, kể cả thơ Đường Luật, để nhà thơ bớt bị gò bó trong việc tìm chữ diễn tả hoặc biểu lộ cảm xúc của mình. Thơ nhờ thế mà chân thật hơn, khiến người ta yêu thơ và sáng tác thơ nhiều hơn. Cho nên đến thập niên 30, 40, chiều hướng thi ca hầu như chuyển sang phong trào thơ mới, tạo nên một biến cố văn học quan trọng cho thế hệ 1932 – 1945. Tờ báo Phong Hóa là tờ báo dẫn đầu cho thế hệ trẻ, bắt đầu dàn trận tấn công hai vị lãnh tụ của hai cơ quan ngôn luận lớn nhất nước là Nguyễn-Văn-Vĩnh, chủ bút Đông Dương Tạp Chí, và Phạm Quỳnh, chủ bút Nam Phong Tạp Chí. 
Phạm Quỳnh, Đông Hồ, Hoàng-Ngo.c-Phách, Tương Phố v.v… dần dà rút lui vào bóng tối, nhường môi trường hoa.t đdộng lại cho Nhất-Linh, Khái-Hưng, Lưu-Tro.ng-Lư, Thế Lữ v.v… Phong trào thơ mới tiếp tục phát triển và trong khoảng hơn mười năm đã chia ra nhiều trường phái với các khuynh hướng khác nhau như Cổ Điển, Lãng Mạn, Tượng Trưng, Siêu Tưởng, Ấn Tượng, Hiện Thực, Xã Hội, và Bình Dân v.v… Vì nội dung của bài viết, tôi không thể đi sâu vào từng khuynh hướng mà chỉ lượt qua một ít câu thơ tiêu biểu cho mỗi khuynh hướng để chúng ta thấy được phần nào những nét đặc thù của từng loại . 

a) Khuynh Hướng Cổ Điển: 
Nhà thơ thuộc khuynh hướng này tìm cái đẹp thanh nhã, cao siêu, cái đẹp có tính cách lý
tưởng, nhưng không phi lý, có thể tìm thấy trong cuộc sống qua mấy câu thơ tiêu biểu
như sau:

“Giấc mộng nghìn xưa đương mải mê
Vùng nghe cảm hứng, báo thơ về
Sóng mài nghiên biển ngòi non chấm
Gió trải tờ mây chữ nhạn đề”
Quách Tấn

“Gió vàng cợt sóng sông chau mặt,
Mây trắng vờn cây núi bạc đầu”
Quách Tấn

b) Khuynh Hướng Lãng Mạn: 
Nhà thơ thuộc khuynh hướng này tìm cái đẹp trong cảm giác phát xuất từ bản năng con
người qua mấy câu thơ tiêu biểu như sau:

“Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa
Vội vàng chi, trăng sáng quá khách ơi !
Đêm nay rằm, yến tiệc sáng trên trời,
Khách không ở lòng em cô độc quá !”
Xuân Diệu

“Sáng hôm nay hồn em như tủ áo
Ý trong veo là lượt xếp từng đôị
Áo đẹp chưa anh, hoa thắm thêu đời,
Áo mơ ước anh bận giùm chiếc nhé !”
Huy Cận

c) Khuynh Hướng Tượng Trưng: 
Nhà thơ thuộc khuynh hướng này chủ trương phát-triển khả năng tâm tư trên hiện thân của sự vật vì theo họ, cái đẹp chỉ phát hiện trong tâm tư con người, mà không thể nào có được trong tự thân của sự vật. Sự vật nếu không có tâm tư sẽ không đẹp, không xấụ Một vài câu thơ tiêu biểu cho trường phái này là:

“Bỗng đôi mắt hiện hình – đôi mắt ngọc
Ôi đôi mắt – toàn thân tôi rởn óc !
Toàn thân tôi tràn ngấm vị say sưa
Và cảm giác và khoái lạc, xô bồ
Làm rung động cả tinh thần khí phách !”
(Đôi mắt – Bích Khê)

“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi lời thơ đều dính não cân tạ
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt,
Như mê man chết điếng cả làn da”
(Rướm máu – Hàn Mặc Tử)

d) Khuynh Hướng Siêu Thực: 
Nhà thơ thuộc khuynh hướng này tìm cái cảm giác ngoài cái cảm giác thực tại của đời
sống loài người, cho nên ý thơ của trường phái này thường có tính cách xuất trần, không mang một thực chất nào của trần gian.

Chẳng hạn:
“Ta cởi truồng ra! Ta cởi truồng ra!
Ngoài kia trăng sáng chảy bao la,
Ta nhảy vào quay cuồng thôi lăn lộn
Thôi ngụp lặn trong ánh vàng hỗn độn
Cho trăng ghì, trăng riết cả làn dạ

 

Ai cởi dùm ta! A lột dùm ta,
Chưa lõa lồ, thịt còn nằm trong da!
Trăng chưa lấp đầy sương chưa ngậm tủy
Hồn vẫn còn chưa uống hết hương hoa”
(Tắm Trăng – Chế Lan Viên)

 

“Ta bay lên! Ta bay lên!
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm.
Ta ở cõi cao nhìn trở xuống
Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm”
(Hàn Mặc Tử)

e) Khuynh Hướng Ấn Tượng: 
Nhà thơ thuộc khuynh hướng này dùng sức phản ứng của cảm giác diễn tả sự vật bên
ngoàị Theo họ, mọi thứ tình cảm bên ngoài chỉ là sản phẩm của xã hội, của cuộc sống, chứ không có gì thiêng liêng hoặc thuộc vũ trụ cả. Nguyễn Vỹ là thi sĩ tiêu biểu cho trường phái nàỵ

“Đêm nay tôi không muốn 
ngồi gục bên đỉnh trầm,.
Nghe rượu cười trong ly,
Nhạc quây cuồng trong khói,
Thời gian đọng trên mị”
(Đêm Trinh – Nguyễn Vỹ)

“Dân tộc Việt Nam
Lớn trong tiếng võng.
Dân tộc Việt Nam
Già trong lời ru”
(Bàng Bá Lân) 

f) Khuynh Hướng Hiện Thực: 
Nhà thơ thuộc khuynh hướng này cho con người là một thực thể của vũ trụ; cho nên mọi thứ như buồn, vui cũng là sản phẩm của vũ tru.. Vài đoạn thơ tiêu biểu cho trường phái này:

Lòng cô gái ở bến sông kia.
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước,
Trên bến cùng ai đã nặng thề”
(Cô Lái Đò – Nguyễn Bính)

“Nắng, nắng, suốt trời vàng dãi nắng
Gió theo mây không biết trốn phương nào
Vườn chuối rủ héo dần trong yên lặng
Những rau bèo chết cạn cả trong ao”
(Đại hạn – Anh Thơ)

g) Khuynh Hướng Xã Hội: 
Nhà thơ thuộc khuynh hướng này cũng cho con người là thực thể của vũ trụ như khuynh
hướng Hiện thực, nhưng khác ở điểm: tình cảm và tinh thần là sản phẩm của lịch sử xã hội, chứ không phải của vũ tru.. Vài câu thơ tiêu biểu như sau:

“Đẻ ra trong đói khổ
Váy mẹ làm áo con
Miệng khát sữa cào vú
Nào hay già thiếu cơm”
(Trần Huyền Trân)

“Đứa bé bơ vơ giữa chợ người
Chợ người rộn rịp chẳng quen ai
Người ta qua lại người hờ hững
Đứa bé mồ côi đứng lẻ loi”
(Nguyễn Văn Cổn)

h) Khuynh Hướng Bình Dân: 
Nhà thơ thuộc khuynh hướng này phản ảnh thực tại bằng trực giác và đi tìm cái đẹp trung thực, cái đẹp nằm trong tâm trạng chung, phản ảnh tinh thần xã hội qua nếp sống hiện thực. Thơ loại này thường mang hình thái ca dao với một vài câu tiêu biểu như sau:

“Anh đi, em ở lại nhà,
Hai vai gánh nặng mẹ già con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi, em liệu chen đua với đời”

4) Chấm Phá: Một Vài Giai Thoại Thơ
Ngẫu nhiên, khi viết về mấy nét chấm phá, tôi lại lạc vào sự thống hệ, liệt kê một số khuynh hướng trong trào lưu thơ mới. Thơ tự do thì hiện đại hơn, nhưng chưa được phổ cập cho lắm, vì rất khó cảm nhận. Những câu như:

“Tôi buồn khóc như buồn nôn
Ngoài phố
Nắng thủy tinh
Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm Tuyền”
(Phục Sinh – Thanh Tâm Tuyền)

Thật khó hiểụ Người đọc không chắc ý tác giả như thế nàọ Sự diễn dịch có thể khác biệt nhau theo từng người đọc. Tôi dừng lại ở đây, không đi sâu vào thơ hiện đại ngay bây giờ, mà muốn dùng mực tàu phết lên đôi nét chấm phá ở góc cạnh khác một vài màu sắc thật vui tươi trước khi chấm dứt bài viết nàỵ 
Màu sắc thật tươi đó là hai giai thoại vui và hay trong văn học Trung Quốc qua việc đổi thơ Ngũ Ngôn thành Thất Ngôn, mà mỗi khi nhớ lại tôi không khỏi cười và hạnh phúc một mình. 

a) Giai thoại vui thứ nhất bắt nguồn từ bài thơ ngắn:

“Bạch nhật mạc nhàn quá
Thanh xuân bất tái lai
Song tiền cần khổ học
Mã thượng cẩm y hồi”

Nghĩa là:
(Ngày trắng vụt trôi nhanh
Khó trở lại tuổi xanh
Trước song mê mải học
Áo gấm về hiển vinh) 

Của một chàng trai trẻ, đã lập gia đình, nhưng quyết chí lập thân, gởi về cho vợ trước khi lên đường sôi kinh nấu sử. Không ngờ, vợ chàng cũng là một người hay chữ, khao khát yêu đương, không muốn chàng ra đi như vậy, để nàng phòng không chiếc bóng, nên thêm vào mỗi câu hai chữ, biến bài thơ ngũ ngôn thành thất ngôn tứ tuyệt, gởi lại cho chồng như sau:

“Thiếp như bạch nhật mạc nhàn quá
Quân tự thanh xuân bất tái lai
Tự cổ song tiền cần khổ học
Kỳ nhân mã thượng cẩm y hồi”

Nghĩa là:
(Thiếp như ngày trắng vụt trôi nhanh
Chàng cũng khó mà lại tuổi xanh
Bao kẻ trước song mê mải học
Ai người áo gấm về hiển vinh)

Tâm lý của người vợ thật giống như bốn câu thơ nỗi tiếng của Vương Xương Linh:

“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu”
Ngô Tất Tố dịch:

“Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu”

b) Giai thoại vui thứ hai bắt nguồn từ bài thơ ngắn:

“Cửu hạn phùng cam vũ
Tha hương ngộ cố tri
Động phòng hoa chúc dạ
Kim bảng quải danh thì”

Nghĩa là:
“Nắng hạn được mưa ngọt
Đất khách gặp người quen
Phòng hoa đêm hợp cẩn
Bảng vàng được ghi tên”

Do các nhà nho hợp lại làm để nói lên bốn điều trong đời họ cho là sướng nhất. Đọc lên, ai cũng công nhận là sướng. Nào là nắng hạn gặp trời mưa, nào đất khách gặp người quen, nào động phòng hoa chúc với người mình tha thiết yêu, nào đỗ đạt làm quan, trên đời này còn điều nào
sướng hơn nữạ Tuy nhiên, có người lại lý luận rằng bốn điều đó tuy sướng nhưng chưa đến mức tuyệt vờị Nắng hạn gặp mưa thì tốt; nhưng nếu nắng chỉ trong thời gian ngắn, có mưa, cũng bình thường thôi.
Ở đất khách không xa nhà là bao, có gặp người quen cũng chưa sướng lắm. Ai lấy vợ thì cũng hạnh phúc trong đêm hợp cẩn, chớ có chi đặc biệt. Học hành chăm chỉ thi đỗ cũng là chuyện thường. Để bổ túc cho bốn điều sướng trên đến chỗ tuyệt vời, có người thêm vào mỗi câu hai chữ nữa thành bài thất ngôn tứ tuyệt như sau:

“Thập niên cửu hạn phùng cam vũ
Thiên lý tha hương ngộ cố tri
Hòa thượng động phòng hoa chúc dạ
Thiếu niên kim bảng quải danh thì”

Nghĩa là:
“Mười năm nắng hạn được mưa ngọt
Dặm nghìn đất khách gặp người quen
Sư cụ thỏa tình đêm cưới vợ
Khoa giáp tên đề cậu thiếu niên”

Lần này thì quả là tuyệt vời. Hạn hán mười năm, mưa xuống mới sướng. Đất khách phải xa thì gặp người quen mới sướng. Sư cụ chưa từng biết mùi đời mà nay lấy vợ thì còn gì sướng bằng. Trẻ tuổi mà đỗ đạt thành danh thì mới gọi là tuyệt.

Xuân Đấu

Thơ của người giang hồ Nguyễn Đông Giang

Bài tản mạn hôm nayBài tản mạn hôm nay, mang tên tập thơ đầu tay của Nguyễn Đông Giang: Thơ Của Người Giang Hồ.

Theo tác giả, tên gọi được ra đời bởi sự góp ý của những người bạn anh, gồm những Lê Ngọc Châu, Mai Xuân Châu, Nguyễn Văn Xuân, Đặng Văn Ngoạn, Nguyễn Văn Nôi, Hoàng Trọng Bân, Châu Văn Tùng, Nguyễn Văn Pháp, Lam Hồ, Hoàng Anh, Phạm Ngọc Niên, Đặng Văn Hải… Đám trung niên này, trong một lần họp mặt tán gẫu tại cà phê Từ Thức Đà Nẵng, đã cao hứng đặt tên cho đứa con tinh thần của Nguyễn Đông Giang. Tập thơ anh định in tại nhà in Da Vàng của Hoàng Công Khanh. Tên tập thơ không phản ánh nội dung của thi phẩm. Cũng không có bài thơ nào trong tập cùng tên. Mô tả chính xác phong cách của người làm thơ, họ Nguyễn ở Đông Giang là ý nghĩa chính của tên gọi. Qua đây, chúng ta có thể hình dung được, tác giả từng là một người phóng khoáng, thích ngao du, ưa thích đi đây đi đó, ngoạn cảnh, săn tình.

Người Giang Hồ của đám chiến sĩ sớm ngã ngựa, có tên thật Nguyễn Văn Ngọc. Anh được ra đời vào ngày 06 háng 02 năm 1943 tại làng An Hải, Đông Giang, quận 3 thành phố Đà Nẵng. Anh theo học tiểu học tại trường Hoàng Diệu rồi vào Võ bị Quốc Gia Đà Lạt khóa 19. Năm ngón tay của một bàn tay phải, là món quà lưu niệm, anh dành cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Nguyễn Đông Giang thành thầy giáo tại các trung học Quốc Gia Nghĩa Tử, Đông Giang, Bồ Đề, Khiết Tâm,Vinh Sơn, Duy nhân (Đà Nẵng), Trần Quý Cáp (Hội An).. Anh cũng từng là ứng cử viên dân biểu hạ viện, tự nguyện bỏ cuộc. Sau 1975, không thủ phận, nên anh có mặt trong tổ chức phục quốc. Được ghép vào thành phần “âm mưu lật đổ chế độ”, Nguyễn Đông Giang có cơ hội ăn cơm tù Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sáu năm. Ra tù bị quản chế tại gia, cấm vượt khỏi Đà Nẵng. Anh nhanh chóng trở thành một ông xe thồ lành nghề.

Ngoài cái thân trần, không có mảnh giấy nào lận lưng, kể cả bằng tốt nghiệp “cải tạo” tốt, Nguyễn Đông Giang đến Hồng Kông một mình năm 1991. Không có bất cứ thứ gì để chứng minh thân thế, sự nghiệp, anh bị giữ tại trại một thời gian năm năm. Có tay nghề tranh đấu, nên anh tiếp tục hành nghề trước những bất công trong trại tạm trú. Song song với công việc giúp mình, giúp người, anh làm thơ. “Cuối cùng, một số thơ, một số bài viết của ông, đã là đầu mối cho International Pen in London và Liên Hiệp Quốc can thiệp, vớt ông đến Hoa Kỳ –  LH” vào năm 1996, theo diện nhà báo tị nạn chính trị. Hai năm sau, anh bảo lãnh vợ con sang đoàn tụ tại San Jose USA.

Trước 1975, Nguyễn Đông Giang chỉ có một số ít thơ được đăng báo, một vài bài thơ lẻ loi được đăng ở các tạp chí : Văn Học, Tiền Tuyến, Quyết Thắng … Bạn đọc đã bất ngờ có tập đầu tay (Thơ Của Người Giang Hồ) của anh vào năm 1969.  Tại Hoa Kỳ, anh viết đều tay hơn. Hiện tại, anh thường có thơ đăng trên các tạp chí văn học hải ngoại như: Hợp Lưu,Tân Văn, Sài Gòn Times, Hồn Việt, Nguồn, Văn Hoá Việt Nam, Đa Hiệu, Việt Nam t/b, Tuần báo Trẻ, SàiGòn Times (Úc), SSTuần Báo (Úc)…

Nguyễn Đông Giang chiếm những giải Nhất Về Thơ cuả Giải Sáng tác Đa Hiệu 89,90 năm 2010 do Trường Võ Bị Quốc Gia việt Nam Haỉ Ngoại tổ chức.  Báo chí giới thiệu thơ anh khá nhiều, mang lại kết quả: Vô Lượng Tình Sầu, tập thơ thứ hai ra đời năm 2005 .

Vô Lượng Tình Sầu gồm 74 bài thơ, được chia thành 3 phần:

1- Thơ viết ở quê nhà (14 bài)

2- Thơ viết trên đường lưu lạc (22 bài)

3- Thơ viết trên đất tạm dung (38 bài)

Sách dày 140 trang. Bìa và trình bày do họa sĩ Hồ Thành Đức thực hiện. Phụ bản của nữ họa sĩ Bé Ký. Sách có bài tựa của Luân Hoán và hai bài bạt của Thái Tú Hạp và Hoàng Lộc. Ở bìa sau, trích đăng ý kiến của Nguyễn Thu Giao, Vũ Hữu Định…

Có hai hình ảnh, thường sống cùng với tâm tình của Nguyễn Đông Giang, qua thơ: địa danh và rượu. Trong bài tưởng nhớ nhà thơ Vũ Hữu Định, mở đầu tập Vô Lượng Tình Sầu, gồm hai đoạn:

chiều thu đẹp, dạo chơi quanh An Hải
nắng thu vàng, làm nhớ áo ai phơi
hồn quá mỏng, nên tay ôm không nổi
bao lần theo, bao lần lạc dấu người

cơn mưa nhẹ, ướt ngang đời trôi nổi
tôi hay người, đang được để tang ?
xin đến quán, uống dăm ba ly rượu
An Hải chiều, An Hải nhớ mang mang
(Lần dạo chơi An Hải)

Trong tám câu của thể loại tám chữ, mỗi dòng đầu được ngắt câu ở chữ thứ ba. Đây là một đặc biệt trong cách kiến thiết câu thơ. Bài thơ triệt để dùng hình ảnh để nói lên cái bâng khuâng kỷ niệm. Những hình ảnh chọn lựa thích hợp và rất đẹp trong năm câu đầu. Có nắng thu để nhớ người phơi áo. Có tha thiết tỏ tình (ôm), nhưng ngại ngùng cam phận. Nhưng vẫn rất phong độ. Trong cuộc đời giang hồ, chợt gặp một bóng hồng như cơn mưa tạt qua, dù khoảnh khắc, cũng rất tuyệt vời.

An Hải là một làng nhỏ, nằm sát bờ đông sông Hàn, một dòng sông có tầm vóc, đã trao thơ vào tay nhiều thi sĩ. Nhà của Nguyễn Đông Giang không xa bờ sông bao nhiêu. Nhưng muốn đến thăm nhà thơ phải qua nhiều ngã cát. Một giàn bí lớn đầy hoa vàng, nhiều lần nhà thơ phải thay lũ ong truyền nhụy. Một hàng hiên đón cả gió biển lẫn gió núi, thay nhau khúc khích quanh năm. Nguyễn Đông Giang yêu ngôi nhà, hàng hiên và cả dòng sông “lòng đựng mây bềnh bồng / ghe phà đi lặng lẽ / nắng hát lời vô ngôn – Lê Hân” nên đi đâu, ở đâu anh cũng nhớ về. Quê nhà trở thành một mạch máu trong thơ Nguyễn Đông Giang. Ngoại cảnh, nhân dạng lẫn tình cảm của tác giả, chúng ta có thể bắt gặp cùng một lúc.

“Chiều cuối năm ta lên đò qua sông /Gió thổi hiu hiu nắng úa bên lòng /An Hải ơi! Xin mừng ta trở lại / Thuở ấu thời, con ngựa già long đong 
Ôi đời ta, đời buồn như mùa đông / Râu tóc hắt hiu cái rụng cái còn / Già nửa đời người dạn dày lận đận / Chợt nghe hồn vừa nở những nhánh bông 
Có ai đợi ta trên con đò cuối năm / Ôi, chỉ bóng ta chao bóng nước xuôi dòng / Mặt mũi tiêu điều theo phần đời gió nổi / Cái đời buồn như nước chảy trăm năm 
Thêm một mùa xuân ta già thêm một tuổi / Tim phổi héo hon theo ngày tháng vô tình / Cũng gắng quay về nằm trên đất Mẹ / Chúa đã buồn nhưng ta lại buồn hơn 
Đã mấy mươi năm ta hát khúc tiêu dao / Đời còn ai là bậc anh hào / Chẳng lẽ khóc để cho đời mai mỉa /Chẳng lẽ cười khi thế sự lao đao 
Ta cứ dửng dưng như không có gì / Giả bộ yêu đời như mọi khi / Dan díu đời ta những thơ cùng rượu /Còn nắng còn mưa nên chẳng thiết gì 
Nghĩ quẩn nghĩ quanh thêm buồn đời thi sĩ / Hương khói nhà ai chạnh nhớ quê nhà / Thôi chào em, chào con đò năm cũ /Trôi vào Xuân – ta, lòng rụng xót xa”

Với bài Ngày Về Qua Đò Cuối Năm trích dẫn trên, ngoại cảnh trở thành thứ yếu. Tác giả chỉ đưa ra vài hình ảnh: con đò, hiu hắt nắng úa và bóng nước xuôi dòng, vừa đủ để người đọc thấy cái vị trí xuất phát của những câu thơ. Nhân dạng tuy cũng vài nét: con ngựa già long đong, râu tóc hắt hiu cái rụng cái còn, mặt mũi tiêu điều, nhưng đã hiện rõ chân tướng một kẻ phiêu bồng. Tâm sự là chủ yếu của bài thơ. Đặc biệt thái độ dửng dưng như không có gì, giả bộ yêu đời…đã vẽ lên thật rõ bản tính của một nghệ sĩ. Nguyễn Đông Giang rất xuất sắc khi viết về quê hương :

“ tôi ra đời tại Hà Thân đất cát
nắng quên vàng mây ngại nở cơn mưa

nghìn năm sau mạch đời ôm nhựa sống
nước sông Hàn buồn gợn bóng hoàng hôn…”
(Khi trở lại Hà Thân)

em gái nhà quê lòng xanh lá chuối
đứng mơ anh từ luống cải vườn cà
chiều Đông Giang vàng nắng bao la
từng rổ cá em đội về từ Mỹ Khê Tân Thái

mùa thu Đông Giang dễ thương như thiếu nữ
nắng nhuộm dòng sông những buổi sáng qua phà

quê anh nghèo nhưng còn đẹp những buổi chiều
nắng trải trên đường quê quanh năm đất cát…
(Những con đường mùa thu Đông Giang)

Yêu quê hương là một tình cảm thiêng liêng, vốn có sẵn trong trái tim mỗi người. Tuy vậy tình cảm này khá mơ hồ. Những nghệ sĩ sáng tác, thường có nhiều khả năng bộc lộ một cách cụ thể. Cơ hội bày tỏ tấm lòng mình thuận tiện nhất là khi xa cách, dù bởi bất cứ nguyên nhân nào. Nguyễn Đông Giang, dĩ nhiên có rất nhiều cơ hội trong hai chặng đời, trên đường lưu lạc và trên đất tạm dung. Với anh “Quê hương và em – từng đêm tim nhói / nỗi nhớ ghim sâu – rỉ máu trong hồn”. Và tâm hồn anh cao ngất những hình ảnh: “Hồn mình – trời quê – cây đa bến cũ / ca dao mẹ ru – gió vọng à ơi”. Có lẽ không còn gì vui hơn là: “nửa đêm ngồi viết cho ai / cho quê, cho mẹ, cho vài người thương” bởi vì: “Thúy Kiều ngồi gãy đoạn trường / còn anh rỉ máu tha phương xứ người”. Những rỉ máu âm thâm ấy biến thành những dòng thơ đầy ắp những chân tình:

“có một việc suốt đời không quên được
như mỗi người lưu lạc nhớ quê xa
như anh ra đi để lại quê nhà
chắc chắn nhớ thương theo anh ròng rã

anh chẳng biết nói gì với quê hương
dù nhiều đêm anh nhớ thương đứt ruột
mùa đông Cali nằm nghe giá buốt
rét mướt bên này – lạnh giá bên kia

chẳng bao giờ quên được cố hương
làm sao quên nơi chôn nhau cắt rốn
Hà Thân ơi ! nuôi anh khôn lớn
hỏi làm sao anh không nhớ sao đành”
(còn một quê xa để nhớ về)

“…có khi là dòng sông bến nước
sáng rổ cá tôm em đội qua nhà
mùi mắm cái quê em Tân Thái
bỗng ngậm ngùi thoang thoảng hương xa
nước sông Hàn dưỡng nuôi Đà Nẵng
thắm thiết ngọn hoa An Hải Sơn Chà
nước sông ấm chảy vào tim phổi
róc rách ân tình sông núi thiết tha…”
(Quê Xa)

Tâm sự của chúng ta, mấy ai khác biệt với nỗi niềm của người làm thơ. Thi ca quả là một vạt đất mầu nhiệm để trồng tỉa những nhớ nhung, san chia những đau buồn. Nỗi nhớ thương quê nhà vốn là một căn bệnh nặng theo Nguyễn Đông Giang: “lắm khi nỗi nhớ thành căn bệnh /  căn bệnh trầm kha chết mỏi mòn, Vì thế anh đã xử dụng khả năng thiên phú của mình, đề gầy dựng cả khu vườn thương nhớ, tươi tốt với những cành “Em Có Về Đà Nẵng”, “Những Câu Thơ Một Thuở Quê Nhà”, “Quê Xa”, “Ngày Sài Gòn Đổi Tên”, “Bài Cho Hội An”, “Ba Mươi Nam Sau Đà Lạt Có Còn Em”, “An Hải Rượu Gạo Bên Sông”, “Hà Thân Ngày Về”, “Mai Em Có Về Tân Thái”... Hy vọng bệnh nhớ nhà của anh đã thuyên giảm khả quan.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Sài Gòn, ngày 29 tháng 3 năm 1975 tại Đà Nẵng. Sự thay màu cờ ở miền Nam Việt Nam thường được cho là một cuộc đổi đời. Nhận xét, đánh giá này vô cùng chính xác. Nó chỉ sai ở điểm dùng chữ giải phóng trật đối tượng. Ngày nay, đồng bào quốc nội cả hai miền, đều đã rõ ai giải phóng ai, không cần phải giải thích, dẫn chứng.

Chừng ba ngày cuối tháng 3 – 75, tại Đà Nẵng hoàn toàn vô chính phủ, để tiếp liền cuộc đổi đời một cách tích cực, nhanh chóng. Nguyễn Đông Giang, Hoàng Quy, Trương Xếp, Phan Minh Khóa, Chu Tân… là những nhân vật “thức thời” với một tốc độ siêu đẳng. Trong lúc những Thái Tú Hạp, Luân Hoán, Nguyễn Văn Pháp… rề rà và chỉ thử xuống cấp chừng vài tiếng đồng hồ rồi bỏ cuộc. Đội ngũ chạy xe thồ đã bổ sung nhân lực. Nếu Luân Hoán có hơi xạo khi mượn hình ảnh người khác để viết “đổi đời ta đạp xích lô / chở em đôi bận đâm vơ vẩn buồn…” hoặc Thái Tú Hạp dùng tình cảnh ông quản đốc đài phát thanh Hoàng Quy, đi xe thồ gặp người tình cũ  để “mời em lên chiếc xe này / đường qua phố nhỏ thân gầy guộc thương…” thì hai nhà thơ Chu Tân, Nguyễn Đông Giang nhập cuộc tận tình. Không biết Chu Tân viết được những gì ? Phần anh Nguyễn Đông Giang chơi một lúc hai bài Thồ Ca, một bảy chữ, một ngũ ngôn:

Ta là anh xe thồ
Dọc đường gió bụi hát nghêu ngao
Đón đưa bao khách về trăm bến
Nhưng còn ta chẳng có bến nào

Cá đầy gánh chưa mời em đến chợ
Rau nặng chị đừng đi bộ đau chân
Mời khách quá giang đi đâu cứ gọi
Ta sẵn sàng chìu dù mỏi gối bong gân

Ta viết cho mình hay cho ai
Cớ sao không nén được thở dài
Thân ngựa xe nầy như thân đĩ
Chở hết mọi người nhưng còn lại được ai !

Ta viết bài thơ ta đề tặng ta
Tặng khách đi qua đi lại bến phà
Tặng cái xe già, cái đời thồ sĩ
Thơ thẩn làm gì , ừ ! ta cũng quên  ta
(thồ ca 1)

Khách bộ hành đi lên 
ta xe thồ đi xuống 
chở đi bao ước muốn 
mang về vạn tình thương.
xe bon đường rực nắng 
mồ hôi đổ dặm dài 
khách ơi em là ai 
có biết ta thấm mệt
nhưng rồi ta phải lết 
giữa nắng bụi mịt mờ 
làm sao không viết thơ
trong cõi buồn rực rỡ…
(thồ ca 2)

Nguyễn Đông Giang đã áp dụng câu khẩu hiệu “lao động là vinh quang” một cách nghiêm túc. Nghề nào cũng đáng quí, một răn dạy, khuyến khích của người xưa. Dù sao trường hợp đổi đời của những chàng có máu thơ thẩn cũng có ít nhiều chua xót.

Từng là một thuyền nhân, có nhiều năm tại trại tị nạn, Nguyễn Đông Giang đương nhiên dành một nhánh thơ cho chặng đời khó quên này. Khi đã đặt chân đến trại tị nạn Sekkong ở Hong Kong, anh viết bài thơ đầu tiên vào tháng 8 năm 1991 để gởi tình về quê nhà:

“đi đâu cũng gặp chuyện bể dâu
lắm trò gai mắt lụy nhân sầu
tù đày, giam cấm, ta đã nhuyễn
chớ hù ta nữa, Sekkong ơi

đã đến đây rồi đành bỏ lại
bến sông quê hiu hắt bóng hàng dừa
những đêm thức khuya lơ nghe chó sủa
nhớ từng con đom đóm ướt mưa

đã đến đây rồi còn chi mất nữa
ngoài những thương yêu chiu chắt trong lòng
mỗi người Việt Nam, mỗi cánh chim phiêu bạt
đâu có ngại gì gian khổ long đong…

đã đến đây rồi Sekkong đất mới
ngủ đỡ đêm nay chưa biết mai đâu
còn đất còn trời bao la đại lượng
nằm ở nơi nào tránh khỏi niềm đau…”
(Từ Sekkong gửi em quê nhà)

Nằm trong giai đoạn đầu của cuộc đời tị nạn, đau buồn, tủi nhục, hồ nghi, hy vọng là điều đương nhiên. Riêng với Nguyễn Đông Giang còn có chút ít mặc cảm, anh ngậm ngùi trải lòng:

“…một đôi lời thăm em thăm mẹ
một đôi lời nhắn nhủ bạn bè
quê hương đừng trách ta phản bội
làm kẻ ra đi – cũng chạnh lòng”

và không nhắc nhở mình:

“ra đi – ra đi – hẹn ngày trở lại
ta là ta – ta đâu phải Kinh Kha
cố quốc mến yêu – chờ tái ngộ
ngày ta về – sông núi – khải hoàn ca”
(Từ Sekkong gửi em quê nhà)

Nguyễn Đông Giang tiếp tục viết “Áo Anh Em Mặc”, “Gởi Em Bên Trời Đất Nước”, “Vô Cùng”, “Về Làm Chi Em”, “Đêm Mưa Tháng Chín Quê Người”, “Hei Ling Chau”, “Vạn Cổ Ca”, “Tình Ca Hải Đảo”… Tổng cộng thơ viết trong chặng đời này dừng ở con số 22 bài. Một số lượng không nhiều nếu tính theo tỉ lệ năm tháng tác giả đã sống và chờ đợi tại vài trại tị nạn ở Hong Kong (1991-1996). Về nội dung, không có tính chất thời sự hoặc hồi ký, chỉ thuần túy là những giải bày tâm sự. Những thương nhớ được gói ghém trong thơ để gửi về cho mẹ, cho vợ con đang lo lắng trông đợi tại quê nhà. Xin được trích thêm vài đoạn thơ bảy chữ, để chia xẻ muộn màng cùng nhà thơ, vốn rất ưu phiêu bồng:

“…từ trại cấm về một trại cấm
lục địa chán rồi, đến đảo xa
ở đâu cũng thế, hàng rào sắt
giữa đại dương mù mịt quê nhà

nhớ nhà ta ngâm thơ nho nhỏ
vừa đủ nghe vừa đủ ngậm ngùi
đủ mòn mỏi tấm lòng lữ thứ
nhớ vô cùng – cố thổ xa xôi

quê nhà ở hướng đông nam ấy
có mẹ ru con bằng ca dao
ôi chao ! ta nhớ mờ con mắt
chữ hóa thành thơ – chữ nhạt nhoà

dù muốn hay không phải ở đây
tự do có phải là lưu đày ?
mây nước mênh mang – trời cố quốc
sầu mình – mình biết, ừ vậy thay !”
(Hei Ling Chau)

Cay đắng đến não lòng. Thú thật, tôi chưa được đọc nhiều thơ viết về đời tị nạn, của đồng bào chúng ta, tại nhiều trung tâm tạm trú khắp thế giới. Hình như rất ít tác giả chạm đến chủ đề này. Vì thế, với tôi, thơ Nguyễn Đông Giang giàu cảm xúc sống thật, tôi cho là xuất sắc, tuyệt vời.

Được nhìn nhận là một người phóng khoáng, chuộng cuộc sống tang bồng, Nguyễn Đông Giang đương nhiên dan díu với vài thú vui nam nhi, cụ thể nhất là rượu. Trong thơ anh phảng phất hơi men này đến mức độ nào ? So với Hoàng Lộc, Phan Xuân Sinh, Hà Nguyên Thạch, Hà Nguyên Dũng, Đynh Trầm Ca, Vũ Hữu Định, Đynh Hoàng Sa…rượu trong đời thường của Nguyễn Đông Giang có phần mạnh nhất. Nhưng trong thơ, anh rõ ràng rất khiêm nhường. Thời “mặt mũi đen sì lấm bụi bốn phương” chạy xe thồ, hương rượu chỉ phảng phất

chiều có bạn bè sớt cho chút rượu
đủ để ngà ngà trong cõi khói sương
(thồ ca 1)

Trên bước đường lưu lạc,  khi nằm nghe chim hót ở một thung lũng, buồn tình, buồn miệng, nhà thơ mới chợt nhớ

chim hót lời oan nghiệt
trên đỉnh cao núi lạ
ta nằm dài, vật vã
thèm rượu, nhớ tình em
(chim hót đìu hiu thung lũng lạ)

Cho mãi đến khi đã làm người lưu vong, Nguyễn Đông Giang mới cho gia đình nhà rượu, xuất hiện trong thơ anh đậm nét hơn một chút:

“… sáng nay tự nhiên ta thèm
vài ly rượu đế xin em rót mời
miếng củ kiệu – đưa một hơi
cùng em nghiêng ngửa – giữa trời quê hương
rượu xưa em – đậm tình thương
rượu nay cô độc – bên đường lưu vong

rượu xưa sóng sánh – bồi hồi
rượu nay lạnh lẽo – xa xôi vô cùng
cầm ly rượu nhớ mùa xuân
nhớ ly rượu gạo tưng bừng phổi gan
rượu đưa ta thăm xóm làng
ba hoa lời chúc – huyênh hoang tiếng chào
bây giờ ta xa đồng bào
đâu còn nghiêng ngửa – lao đao rượu mời
mùa xuân uống rượu lưu vong
rượu rưng rưng giọt – ròng ròng lệ đau
tha hương uồng rượu vơi sầu
gờ đâu rượu khuấy động đau trong hồn
(lưu vong rượu ngoại, ngậm ngùi xuân xưa)

Tôi nhớ cách đây vài năm, khi tình cờ đọc ké cuộc bình bàn thơ viết về rượu, của các anh Thiếu Khanh, Lại Quảng Nam… trên mạng điện toán, tiêu chuẩn để được chọn một bài thơ rượu rất khó khăn. Tôi cũng đồng tình, một bài thơ có hương rượu đẹp, phải thể hiện được nét hào phóng, sảng khoái của người đang thưởng thức rượu. Đoạn thơ rượu của Nguyễn Đông Giang có phần yểu điệu, mềm mại quá, có thể do thể thơ lục bát rất khó viết hay.

Trong bài An Hải Rượu Gạo Bên Sông, với thể loại bảy chữ, Nguyễn Đông Giang có những câu ngất ngưỡng hơn:

“… một thời thèm rượu đong nửa xị
hai thằng cưa, chẳng thấm vào đâu

cảm ơn An Hải ta về lại
rượu mới phần chai, đã say nhừ
ta quá vui mừng, hay buồn bã
chắc ta già…, rượu vật hình như

rượu gạo quê ta là rượu trắng
uống vào, thấy trắng cả non sông
ta về chẳng buồn mình tay trắng
uống rượu quê, khuây khỏa tấc lòng”

Chắc các bạn đồng ý với tôi, đọc đoạn bảy chữ Rượu Gạo…thú vị hơn đoạn lục bát Lưu vong rượu ngoại nhiều.

Cũng đồng dạng với người bạn đường của tửu vương Lý Bạch, thơ tình lứa đôi cũng Nguyễn Đông Giang cũng khá nhạt nhòa. Tình dành cho người đẹp ngoài đời thường có lẽ nhiều. Trong thơ có phần ngược lại. Ngày xưa nhà thơ Cao Thoại Châu đã Mời Em Uống Rượu. Bây giờ Nguyễn Đông Giang táo bạo hơn Mời Em Ngủ Lại. Các cụ thường nói: người đàn bà đến nhà hay quên đường về, hoặc đánh mất cái gì quí giá. Chúng ta xem cái bạo gan của Nguyễn Đông Giang ra sao:

mời em ngủ lại nhà tôi
giường tre chiếu lát nhưng rồi sẽ quen
mời em ngủ lại một lần
chuyền nhau chút rượu cho gần nhớ nhung
mời em đuổi muỗi giăng mùng
thơ tôi cứ trải cho cùng cõi vui
em ơi cứ ngủ cho vui
tay tôi em gối ngậm ngùi đó em
em ơi cứ ngủ một đêm
lòng tôi là cả tấm mền thủy chung
cứ suy cứ tính cho cùng
đời nhau giỏi lắm là vùng đớn đau

Quả là một lời tán tỉnh thực thà, trực diện. Đã mời em đến còn cho uống rượu, còn động chiếu động giường… y hệt một Nguyễn Văn Ngọc từng chạy vespa ngoài đời. Tuy vậy, tôi đoán, anh thất bại. Phải chi anh phải tự tay trải chiếu giăng mùng em chắc chắn sẽ đồng ý ngủ cho vui. Không phải chỉ một đêm, mà nhiều đêm, cả đời nữa không chừng.

Có lẽ những nét vẽ dưới đây là một bóng hồng khác, kề cận hơn:

em về làm nắng mùa xuân
trong anh đông ngự khô từng lá cây
em về, bước nhẹ như mây
nước da em trắng thân gầy dễ thương
ngày xưa khi má em hường
mưa nguồn, gió biển cùng thương má đào
em về tóc rối xanh xao
lược tay anh gỡ, ôi chao ! diệu huyền
xa em, tình khóc truân chuyên
gần em,anh thở ưu phiền trên môi
(buổi em về)

Lục bát mời mọc của Nguyễn Đông Giang khá kín đáo nhẹ nhàng. Được ca ngợi nhan sắc, được hứa dùng tay để chải tóc, chắc nhiều cô nàng cảm động. Tôi thật sự không biết, những ông thi sĩ làm thơ tán gái có ông nào thu hoạch tốt không, hay yêu chỉ để lời năm ba bài thơ cho vui đời. Cao Thoại Châu, Hoàng Lộc… nhớ trả lời giùm nhé.

Riêng Nguyễn Đông Giang, có phải từ tình yêu chuyển sang tình chồng vợ hay không ? Nghi vấn này không cần trả lời khi căn cứ vào số lượng thơ, chất nồng nàn trong những bài viết, anh tặng Bích, vợ anh,

Thay vì mất mạng như hai nhà giáo Lê Văn Bảy, Trần ngọc Thành (chủ trường Mầm Non), trong tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền”, Nguyễn Đông Giang chỉ gở lịch già sáu năm. Trước những giọt nước mắt mừng đoàn tụ của vợ, anh đã có ba mươi hai câu thơ thật cảm động:

“… anh về thân đã tàn quá đỗi
con hổ trúng tên dẫy dụa bên đời
em đừng khóc – đừng buồn chi vội
cho đời mình lúc cạn lúc vơi

vẫn em đó – của anh thuở đó
đã già hơn từ buổi xa chồng
đã son sắt với người lao lý
em đep nhiều nhờ buổi long đong

gạo em nấu mồ hôi nướt mắt
anh nhai cơm từng hạt thủy chung
rượu đâu uống lòng đà say ngất
tình đã quen hơi ấy vô cùng…”
(cho em từ ngày về)

Trong thời gian ở trại tị nạn, chán ngán, tù túng, tác giả nhớ đến quê nhà, mẹ già, nhớ đến cuộc đời cơ cực của vợ. Anh thấy ra cái đói cái lạnh, nên đã chua xót khuyên vợ ,nên lấy áo quần của anh còn bỏ lại để mặc qua ngày. Tình nghĩa thật vô cùng:

“thương em còn ở quê nhà
còn anh ở tuổi càng già càng đi

em về lấy áo anh phoi
mùa đông em mặc, nhớ đời phong sương
em là rượu tiễn dặm đường
còn anh lữ khách biết phương nào dừng
thiếu anh đời vẫn dửng dưng
áo anh em mặc thấy chừng bên nhau
(áo anh em mặc)

“… anh chừ đây như áng mây trôi nổi
từ buổi xa em trôi giạt bao miền
vỗ giấc cô đơn, em về bên mộng
anh gắng mừng vơi hạnh phúc phù du”

Chỉ nằm mộng thấy vợ đã là một hạnh phúc, thật tuyệt vời. Tình chăn gối còn rất nhiều trong Vô Lượng Tình Sầu. Nguyễn Đông Giang đã lót thâm tình này vào nhiều bài viết, mỗi bài một đôi dòng. Chị Bích, phu nhân của nhà thơ, năm 1998 đã được đoàn tụ cùng chồng con. Lần này, nhà thơ đã dành hẳn cho vợ một bài viết mặn nồng, có cả đề tặng hẳn hoi:

tháng ba em qua trời xanh lại
ngày hết hoang vu đêm đẹp không ngờ
Chim rủ nhau về hàn huyên trước ngõ  
riú rít  tâm tình, ngôn ngữ như thơ

anh bây giờ cũng hiền như Phật
tha thứ kẻ thù, lòng sẵn bao dung
chú chó, cô mèo cũng thành tri kỷ
như yêu em – lòng thấy trẻ vô cùng

anh thân ái mời em bát nước
rót từ tay anh – tình đậm như chè
cánh tay trái từng đêm em gối
từng đêm quê nhà, mưa lạnh anh che

anh bây giờ miệng vui như sáo
như trẻ thơ, dù đã già đầu
dù dư biết tóc mình bạc trắng
cả nỗi lòng khánh kiệt có sao đâu

tháng ba xa xứ em qua Mỹ
em không sang sông – em đi theo chồng
chẳng ai tiễn đưa – mình anh đón đợi
chỉ còn tấm lòng hồn ngập nắng xưa
(tháng ba xa xứ em qua Mỹ)

Xin tạ ơn bề trên, đã cho những cặp chồng vợ Việt Nam sum vầy, sau những cách chia, khởi từ một chế độ chính trị. Mừng ông bà nhà thơ nhâm nhi hạnh phúc.

Đọc thơ Nguyễn Đông Giang, tôi cảm thấy tác giả thật gần gũi với mình. Sự thân thiết một phần là bạn học thời vào đời ở mái trường Hoàng Diệu. Sự thân thiết có từ thời cùng xuống đường, từ thời cùng ghé thăm Đường Rầy Đà Nẵng, và có lẽ ở trong nhiều câu thơ. Dân Quảng Nam mà, không ai học ai, nhưng chất đất sỏi đá, chất nước trong xanh sông Hàn đã tạo nên những nét anh em trong thơ.

Tản mạn với riêng tôi là đi tìm những đồng cảm, những nét đẹp trong thi ca. Bạn sẽ thấy, ở bất cứ thơ ai, cũng có những cái vụng. Nhưng chẳng hề chi, khi đọc bạn đã sống cùng với người viết là tuyệt vời rồi, không cần phải vạch lá tìm sâu. Chuyện chi phải làm một người phê bình cho mệt.

Sáng nay, khi bài viết này mới được nửa bài, tôi nhận tin: Nguyễn Đông Giang sẽ cho in thi phẩm mới trong năm nay. Tập thơ có tên gọi Bản Tình Ca Cũ. Tôi không đọc trước bản thảo của anh như hai lần trước. Anh có gởi đến tôi duy nhất một bài. Bài này có đề tặng một nữ ca sĩ. Không được phép, nhưng tôi muốn nhanh tay hơn tác giả, chuyển bài thơ đến ca sĩ Lệ Thu.

Bản Tình Ca Cũ
Tặng ca sĩ  Lệ Thu – ndg

Non sông còn lại bài ca cũ
Em hát làm chi nữa thêm buồn
Ngã ngựa. Cuối đời. Thân thất thổ.
Cuối đời nhớ nước. Lệ còn tuôn

Khi em hát bản tình ca cũ
Anh nghe sầu dâng tận phương này
Anh theo tiếng hát về quê Mẹ
Chiến tranh tàn lụn. Buồn vậy thay !

Nỗi đau nào trong bản tình ca
Mà em hát làm anh xốn dạ
Lưu vong hề ! yên thân , đẹp mã
Non nước chờ ai . Kẽ lãng du !

Khi em hát bản tình ca ấy
Anh ấm lòng mơ ước buổi về 
Em ạ. Có ngày anh trở bước
Quay về . Hôn lại mảnh đất  quê
Khi nghe em hát . Anh nhớ quá  
Nhớ xưa em . Lặn lội nuôi chồng
Nhớ thuở điên khùng . Quăng súng đạn
Nghĩ  càng thêm hổ . Thẹn non sông !
Non sông còn lại bài ca ấy

Em hát còn anh. Chỉ đau lòng
Em hát làm anh. Không ngủ được
Đau lòng. Đau nước. Phận lưu vong !

Thèm nghe em hát . Nhưng khổ nổi
Anh vốn tủi thân . Dễ nhớ nhà
Trời ơi ! con quốc xa rừng khóc
Em đừng hát nữa . Bản tình ca .

Hà Khánh Quân, bút hiệu khác của Lê Ngọc Châu (Luân Hoán)
04-6-2010

Thi ca có nhu cầu đổi mới không?

Có đổi mới mới có tiến bộ. Bất cứ cái gì cũng cần phải đổi mới. Thi ca phải nói tiếng nói của thời đại, tâm tình của thời đại. Nhưng đổi mới như thế nào, đó mới là vấn đề. Đổi mới không phải là sổ toẹt cái cũ. Nếu thế thì sinh mệnh của thi ca ngắn ngủi quá. Mà sở dĩ con người làm thơ làm nghệ thuật là muốn biến cái hữu hạn cuộc đời thành vĩnh cửu. Ngày nay chúng ta vẫn còn đọc và thưởng thức Nguyễn Du, Lý Bạch, Đỗ Phủ … Những con người ấy không bao giờ cũ cả. Những câu ca dao như :

Đèn thương nhớ ai, mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai mà mắt đăm đăm

Không bao giờ cũ. Vì đó là tiếng nói muôn thuở của con người. Tạo hóa tạo ra hàng tỷ tỷ con người vẫn chỉ là từng ấy mặt mũi tay chân, chẳng ai khác ai, nhưng mỗi người trong cái chung vẫn có một dáng dấp riêng. Tạo hóa không đổi mới con người bằng cách xếp đặt mặt mũi tay chân qua những vị trí khác… nếu lỡ có một thai nhi nào chào đời, thừa thiếu một trong những ngũ quan đó – người ta gọi đó là dị dạng, là quái thai, các bác sĩ sẽ tìm cách mổ xẻ làm lại cho dứa trẻ được một vóc dáng bình thường …
Thơ cũng vậy, không lý gì chân lại đổi chỗ cho tay, bộ óc lại nằm trong con mắt !

Lý Bạch khi uống rượu dưới trăng viết:

Kim nhân bất kiến cổ thời nguyệt
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cố nhân

Có nghĩa là: người bây giờ không thấy trăng ngày xưa, Trăng ngày xưa vẫn chiếu sáng người bây giờ.
Hoặc:

Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tùy.

Có nghĩa là: người ta với lên trăng không được, nhưng người đi đâu thì trăng đi đó.
Cái nhìn của họ Lý rất mới. Điều đó ai cũng biết nhưng không nói ra được. Chỉ có Lý Bạch mới nói ra được. Nó nói cái ngắn ngủi, cái nhỏ nhoi của kiếp người.

Thơ có cần Phải có luật tắc không ?
Hỏi : có cần chú ý đến luật thơ không ? Nói cách khác luật thơ có thật sự cần thiết không ?

Trả lời : chúng ta ai cũng thích tự do, ngay cả trong lĩnh vực thi ca. Nhưng tự do nào cũng có giới hạn của nó. Đi đường gặp đèn đỏ thì phải ngừng không thể cứ tự do vượt. Con người từ khi sinh ra trước khi biết đi phải biết nằm ngồi đứng rồi mới đi và sau đó mới chạy được không ai có thể chưa biết đứng đã biết đi… trước khi ăn được thức ăn cứng phải biết uống sữa và ăn thức ăn mềm trước tiên…

Nhưng muốn trả lời câu hỏi tôi xin được hỏi câu này :

Luật thơ có phải do con người đặt ra không ?

Nếu nó là sáng tạo của con người thì con người có thể phá bỏ nó mà đặt ra một luật lệ mới thích hợp hơn. Nhưng con người không hề sáng tạo ra Luật thơ . Con người chỉ khám phá ra Luật Thơ, hệ thống hóa nó để giúp cho người học thơ mau đạt được kết quả…

Luật Thơ ví cũng như Văn Phạm – Người Việt Nam không cần học Văn Phạm vẫn nói được tiếng Việt . Vậy thì thơ có trước , Luật thơ có sau.

Ngôn ngữ có trước Văn Phạm có sau – Vậy mà có luật, Ai đặt ra Luật ?
Luật là vật hằng có là một nguyên tắc sinh hoạt của tạo hóa – Như nước chảy xuống chỗ trũng, như nhẹ thì bốc lên cao, nặng thì chìm xuống.

Ta chiêm nghiệm mà biết. Hết ngày lại đến đêm, hết đêm lại đến ngày. Đó là luật mâu thuẫn thống nhất mà người ta đã tưởng tìm ra nhưng thực sự nó là luật Âm Dương tương hỗ. Có Âm không có Dương thì không có sự sống và ngược lại cũng vậy… Âm Dương không đều hòa thì vũ trụ bất an – chỉ có Thanh Bằng và Thanh Trắc. Bằng là Âm, trắc là Dương – Quân bình được âm dương thì câu thơ nghe êm tai .

Mục đích tối hậu của thi ca nói riêng, của nghệ thuật nói chung là đem lại sự thoải mái cho con người – Có thoải mái con người mới thấy hạnh phúc. Nếu hình thức thi ca không đáp ứng được điều đó là thi ca đã thất bại. Chúng ta nên nhớ điều này: chân lý chỉ có một. Vậy cho nên luật thơ chỉ có một: đó là thế quân bình âm Dương – Nói luật thơ Song Thất khác luật thơ Đường, khác luật thơ Cổ, luật thơ mới là chỉ nhìn thấy ngọn.
Thật ra, tất cả luật thơ đều giống nhau. Tôi xin lấy một ví dụ. Thơ luật Đường cũng Bảy chữ nhưng đọc lên ta ngắt thành Ba đoạn như sau :

Bước tới / đèo Ngang / bóng xế tà

trong khi thơ Song Thất cũng Bảy chữ nhưng ta đọc:

Trải vách quế / Gió vàng / Hiu hắt

Vì cái nhịp nó đổi nên ta tưởng luật nó đổi. Nếu ta căn cứ vào những chữ cuối nhịp – mà gọi là chữ luật – thì luật của thơ là:

Tới (trắc) Ngang (bằng) Xế (trắc) tà (Vần)
Quế (Trắc) Vàng (bằng) Hắt (trắc)

Thơ Đường có hai thể: Bằng và Trắc
Bằng là chữ thứ hai câu đầu là Bằng – Trắc là chữ thứ hai câu hai là trắc

Bảng tóm tắt như sau :
Thể Bằng :

B B T T T B Vần
T T B B T T Vần
T T B B B T T
B B T T T B Vần
B B T T B B T
T T B B T T Vần
T T B B B T T
B B T T T B Vần

Thể Trắc :

T T B B T T V
B B T T T B V
B B T T B B T
T T B B T T V
T T B B B T T
B B T T T B V
B B T T B B T
T T B B T T V

Đọc Luật thi ai cũng biết câu :

Nhất tam ngũ bất luận,
Nhị tứ lục phân minh.

Nghĩa là chữ thứ 1, 3, 5 muốn viết là bằng hay trắc cũng được – Chữ thứ 2, 4, 6 phải đúng như luật đã qui định. Căn cứ vào luật đó ta thấy:

Chữ thứ 2 4 6 thể bằng :
B T B
T B T
T B T
B T B
B T B
T B T
T B T
B T B

Và 2 4 6 thể trắc thì :
T B T
B T B
B T B
T B T
T B T
B T B
B T B
T B T

Ta thấy chữ cuối nhịp 1 là bằng thì cuối nhịp 2 là trắc và cuối nhịp ba là bằng – Ngoài những chữ cuối nhịp ra tất cả những chữ khác muốn viết là bằng hay trắc cũng được. Đó là nguyên tắc sơ đẳng. Dĩ nhiên niêm luật còn phức tạp hơn nhiều. Nhưng bước đầu chúng ta cần biết như vậy.
Đến thơ mới 8 chữ, đến hát ả đào (ca trù) cũng vậy :

Anh một mình / nghe tất cả / buổi chiều
Vào chầm chậm / ở trong hồn / hiu quạnh
Anh nhớ bóng / anh nhớ hình / nhớ ảnh
Anh nhớ em / anh nhớ lắm / em ơi !

Mỗi câu thơ ngắt làm ba nhịp. căn cứ vào những chữ cuối nhịp ta có :

Mình (bằng) cả (trắc) chiều (bằng)
chậm (trắc) hồn (bằng) quanh (trắc)
bóng (trắc) hình (bằng) ảnh (trắc)
Em (bằng) lắm (trắc) ơi (bằng

Sở dĩ như vậy vì câu thơ vần ôm. Cứ hai vần trắc lại nôi theo vần bằng. Nếu theo vần chéo thì luật thơ lại đổi khác nhưng vẫn tuân theo quy luật : bằng trắc bằng, trắc bằng trắc..

Thí dụ:
Anh một mình / nghe tất cả / buổi chiều
vào chầm chậm / ở trong hồn / hiu quanh
Bóng trăng tròn / khiến anh nhớ / em yêu
Tà áo ấy / chiều nào / trong gió lạnh

Luật sẽ là :

B T B
B B B

Tôi trình bày các thi hữu có lẽ tưởng tôi là người nệ cổ. – Không phải vậy. Người cầm bút nói chung, người làm thơ nói riêng phải nói tiếng nói của thời đại mình. Thời đại mình không còn nón quai thao, không còn chiếc cáng điều. Thời đại ta có xa lộ, có máy bay, có hỏa tiễn. Qui luật ấy không những cho thơ, cho hội họa, cho âm nhạc mà còn cho chính trị, cho kinh tế, cho xã hội – Những qui tắc đặt ra là để giúp cho lối phô diễn được đẹp đẽ hơn, du dương hơn, tức là để giúp cho nội dung phong phú thâm viễn hơn, trang nghiêm tế nhị hơn, trang nghiêm tế nhị hơn thì qui tắc mới đáng quí, mới đáng phát huy.

Tôi xin mượn một câu của cổ hiền tây phương: “l’ art nait de contrainte et meurt de liberté”, có nghĩa là “nghệ thuật sanh nhờ cưỡng bách chết vì tự do”, là vậy đó.

Tôi xin trích lời của Thi Sĩ Quách Tấn:

Luật thơ không phải do đôi ba người hay một nhóm người háo sự đặt ra mà chính là sự phát huy những kinh nghiệm kỹ thuật đã thành công, điển chế những sự thành công ấy để làm khuôn phép chung cho những ai thấy rõ công dụng và tự ý đem làm phương tiện cho mình. Không ai ép buộc mình phải tuân theo, nếu mình không thích.

Nói tóm lại: luật thơ đặt ra là cốt để giúp cho thi nhân những phương tiện ổn định để diễn đạt ý thơ của mình. Có cái gì mà không có luật tắc. Nhưng niêm luật không phải là do con người đặt ra. Thơ có trước khi có niêm luật. Ngôn ngữ có trước khi có văn phạm. (Con người có trước thi ca) Luật thơ hay văn phạm chỉ là một khám phá của con người. Như ta khám phá ra nước chảy xuống chỗ thấp là một qui luật. Vậy luật thơ tiềm ẩn trong thi ca, là luật chung của tạo hóa.
Không biết đến qui luật đó; đòi hỏi một thứ tự do không có luật tắc là một chuyện không tưởng.

Thơ có thể không cần có vần, nhưng vẫn cần nhịp điệu. Ta không thể đọc một câu thơ một mạch từ đầu đầu đến cuối. Ta không thể phá bỏ luật tắc của thiên nhiên . Nhịp điệu là luật tắc của thiên nhiên vậy.

Thơ là tiếng nói của lòng (tâm chi thanh). Thơ phải có nhạc mới dễ truyền cảm. Mà vần là yếu tố quan trọng để tạo nhạc. Vậy chúng ta phải cố tránh những vần ép. Nếu không dùng được những vần chính thì nên lựa những vần thông gần nhau …

Thơ Khác Văn Chỗ Nào ?

Thơ cốt ở cảm rồi hiểu là thứ yếu. Văn thì ngược lại. Văn phải hiểu trước phải có chuyện, có sự việc, thơ thì không cần. Thơ là tiếng nói trực phát của con tim. Văn phải có sự làm việc nghiêm chỉnh của lý trí.
Thơ không cần lý trí nhiều.

Đó là ý thô thiển cuả tôi Có gì sai sót tôi xin lãnh ý

huệthu
03 20 2013

[yourchannel user=”CNN” search=”Thơ Lý Bạch”]

Những Phá Cách Tài Tình Trong Thơ

Thuở Sơ Ðường người ta làm thơ không chú trọng nhiều về luật. Thật ra luật chỉ làm cho người thơ dễ đạt được ý thơ. Thơ hay không hẳn vì niêm luật. Những bài thơ của các vị Tam Khôi (Tam Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa) hẳn là rất đúng niêm luật. Nhưng những bài thơ ấy vị tất là những bài thơ hay ! Chứng cớ là sau những lần yết bảng, vua thường thiết yến đãi các quan tân khoa. các vị tam khôi đều có làm thơ lưu niệm. Nhưng cho đến nay thứ thơ lưu niệm ấy ít ai còn nhớ lấy dù chỉ một bài ! Vậy thì thơ hay không phải vì đúng luật…. Chẳng qua chỉ là một lối thơ trong trường ốc thì phải câu nệ vào luật . Không thế thì làm sao mà chấm ? Luật để làm tiêu chuẩn cho mọi sự phê phán. Nhưng những người làm thơ hẳn là phải đồng ý với nhau rằng thơ muốn hay trước hết phải có hồn. Hồn thơ là cái duyên của thơ. Thơ không có hồn như người không có duyên. Vô duyên thì đẹp mấy cũng không ai chuộng ! Hồn thơ xuất phát từ sự chân thành, sự giản dị. Hít thở làm nên sự sống, nhưng hít thở phải không cầu kỳ, phải thật tự nhiên thật giản dị. Nằm có cách hít thở của lúc nằm, ngồi có cách hít thở của ngồi, đứng cũng thế. Ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt, cho đến lục bát, song thất… mỗi thứ đều có một lối luật riêng… Lối thở của lúc đứng khác lối thở của lúc nằm. Luật thơ Lục Bát khác xa luật thơ Ðường. Nhưng vẫn là luật nghĩa là những phép tắc riêng giúp cho người thơ đạt được ý thơ. Cho nên cái tài tình của người thơ là biết phối hợp các thể thơ. Tôi xin mượn một bài thơ của Tản Ðà làm ví dụ. Tôi nghĩ Tản Ðà là một thi sĩ thượng thặng của Việt Nam. Ông là người thông thạo thập bát ban võ nghệ. Có nghĩa là lối thơ nào ông cũng rành cả. Cho nên trong một bài thơ ông phối hợp nhiều thể thơ, phối hợp một cánh rất tài tình, rất tự nhiên, đó là bài Cảm Thu, Tiễn Thu, Ông mở đầu bằng:

Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh
Trăng thu bạnh
Khói thu xây thành.
Lá thu rơi tụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Ðêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa.
Sắc đậu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lí tha phương,
Cảm thu ai có tư lường hỡi ai?

Nào những ai:
Bảy thước thân nam tử,
Bốn bể chí tang bồng
Ðường mây chưa bổng cánh hồng,
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu mi.

Nào những ai:
Sinh trưởng nơi khuê các,
Khuya sớm phận nữ nhi,
Song the ngày tháng thoi đi,
Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa.

Nào những ai:
Tha phương khách thổ
Hải giác thiên nha,
Ruột tằm héo, tóc sương pha,
Góc phần trạnh tưởng quê nhà đòi cơn.

Nào những ai:
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn,
Giàu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!

Nào những ai:
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ hoa ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông trăng dãi con thuyền chơi vơi!

Nào những ai:
Dọc ngang trời rộng,
Vùng vẫy bể khơi
Ðội trời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân.

Nào những ai:
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.

Thôi nghĩ cho:
Thu tự trời,
Cảm tự người.
Người đời ai cảm ta không biết!
Ta cảm thay ai viết mấy lời.

Thôi thời:
Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui,
Chỉ để khách đa tình đa cảm,
Một mình thay cảm những ai ai!

Bài thơ bắt đầu bằng câu ngũ ngôn, rồi xuống câu tam ngôn, tứ ngôn, rồi tiếp theo là lục bát. Không ai băn khoăn hỏi đây là thể thơ gì ? Bởi nó rất thơ, ngũ ngôn thì ra ngũ ngôn, rồi chuyển đến tam tứ ngôn, đều tự nhiên như thế cả.

Bài Tống Biệt :

Lá đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một phút trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Ðá mòn rêu nhạt
Nước chảy huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Ðầu non
Ðường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…

Bài này không thể nói là thể thơ gì nhưng có ai bảo nó không phải là thơ ?

Tôi nhớ đến một bài thơ khác của ông Hà Thượng Nhân trên báo Tựợ Do viết gởi ông Kémoularia đạii diện liên Hiệp Quốc. Vào ngày 27 tháng 8 năm 1959, Ủy ban Quốc Gia Việt Nam trước sự hiện diện của ông Kémoularia, đại diện đặc biệt của ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc về năm những người tỵ nạn trên thế giới đã nhóm họp tại Sài Gòn.
Bài thơ dưới đây mà ông HTN đã viết để chào mừng vị sứ giả của tình thương ấy. Bài thơ tuy dài nhưng vẫn có tính chất thời sự, vì thế tôi xin chép lại nguyên văn:

Kính chào Kémoularia

Kính chào Kémoularia
Sứ giả tự do
Tiếng nói của con người đau khổ.
Chúng tôi ra đi
Vượt Trường Sơn hiểm trở,
Lấy tay yếu cản đè sóng dữ,
Không cần sống, chỉ cần dân chủ,
Tìm về thế giới tự do
Ở đâu áo ấm cơm no ?
Trăng Thu rung mãi tiếng hò nhặt khoan.
Chúng tôi khinh nguy nan,
Tìm tấm lòng cởi mở.
Lúc gặp nhau vui mừng hớn hở,
Dù mới quen như biết từ lâu.
Mời nhau này một miếng trầu,
Chuyền tay vê điếu thuốc lào cũng vui.
Chúng tôi đổ mồ hôi,
Nâng niu từng tấc đất,
Mỗi tấc đất là tấc lòng tấc ruột,
Là máu xương, là sự nghiệp ông cha.
Mà nay lìa cửa, lìa nhà,
Bởi say ánh sáng, chẳng thà thiêu thân.
Năm châu triệu triệu bước chân,
Của chúng tôi : Những người dân cần cù.
Ơi Tây Ðức mịt mù thăm thẳm,
Ơi Nam Dương ngàn dặm, héo hon !
Bốn phương giang mắc núi non,
Lưới nào bủa được cánh con chim trời ?
Ơi Tây Tạng, những lời nói ngọt,
Tại làm sao chẳng lọt vào tai ?
Ơi Hung Gia Lợi anh tài,
Nắm tay thành bức tường dài : chúng ta,
Kính chào Kémoularia,
Kính chào Liên Hiệp Quốc.
Phẩm giá con người từ lâu nhơ nhuốc,
Chúng tôi đi để chuộc lấy linh hồn.
Rồi những bình minh, rồi những hoàng hôn,
Chợt tỉnh lại ngoảnh về đất Bắc,
Thương cha mẹ đày trong gót giặc,
Nhớ từng lối cỏ bờ tre,
Mùa nào lúa chín đỏ hoe,
Mùa nào gió trở se se, hỡi mình ?
Nếu lấy sống làm vinh,
Chúng tôi không sống nhục.
Chỉ có một cực hình,
Là cúi đầu gục mặt.
Chúng tôi đi, bởi không cam què quặt,
Không học theo lang sói sủa quân thù,
Rạch Cái Sắn thành khoai, thành đỗ,
Rừng cao nguyên thành lúa, thành cơm,
Ðánh tranh gìn giữ cọng rơm,
Ở đây tưởng thấy mùi thơm quê nhà.
Ơi Kémoularia !
Biết lấy chi làm quà,
Trao vào tay sứ giả ?
Xin cho gửi niềm thống khổ,
Mồ hôi nước mắt tin yêu.
Xin cho gửi lời chào,
Những ai cùng cảnh ngộ,
Tiếng nói chúng tôi dù rằng bé nhỏ
Nhưng là tiếng nói can trường.
Nhờ tình yêu dẫn lối đưa đường
Hòa trong tiếng những người “đồng chí”.
Chúng tôi viết giữa không gian hùng vĩ,
Giữa lòng thế kỷ hai mươi :
“Chúng tôi là người,
Chúng tôi muốn làm người.”
Hỡi Kémoularia,
(trích trong tập thơ CHÂN TÂM do Ðỗ Kế Hoàn sưu tập trang 23)

Bài thơ này không viết theo một thể thơ nhất định nào. Nó là phối hợp nhiều thể thơ nhưng là một bài thơ.
Và sau đây là một bài Thất ngôn bát cú :

NGÔNG

Quay ngựa xích thố buộc khóm trúc
Ném gươm long tuyền về non Tây
Chí thôi đã lỡ, kệ binh lửa,
Danh vốn không màng, mặc cỏ cây.
Gà chó đôi con năm tháng rộng
Ruộng vườn dăm khoảnh gió trăng đầy
Buông câu, xốc áo quay nhìn vợ:
Trời đã chiều chưa? Ta đã say!

HTN

Câu đầu toàn vần trắc đến câu hai toàn vần bằng, bài thơ thật hay phá cách thật tài tình. Ông cũng đáng danh là một “đại gia thơ” trong làng thơ Việt Nam.

Như vậy thì thể thơ là một cách nói. Gần đây Bà Vi Khuê có viết một bài thơ. Mới đọc qua tưởng là luật Ðường. Nhưng theo tôi, đó là bài thơ “có vẻ” là luật thế thôi. Bài thơ như sau :

Bà Huyện Thanh Quan

Một tấm lòng hoa nặng nỗi niềm
Niềm non nỗi nước, mảnh tình riêng
Trong cơn gió bụi chìm hương lửa
Giữa cảnh phong ba lạnh mối giềng
Cung báo quốc não nùng điệu quốc
Giọng thuyền quyên khắc khoải lời quyên
Dừng chân đứng lại, ngùi trông lại
Ðể lại lời thơ vạn cổ truyền

Câu 5 có vẻ không đúng luật, nhưng nhịp của hai câu thơ ấy rõ ràng không còn là nhịp thơ của luật thơ nữa. Cho nên ta vẫn thấy thuận tai. Câu thơ vẫn đứng vững bởi nó đã chuyển qua nhịp thơ Song Thất (nhịp ba).Muốn phá được như thế, trước hết phải nắm vững luật thơ nói chung và dĩ nhiên tài năng phải vào bậc thượng thừa.
Lý Bạch, Thôi Hiệu, Ðỗ Phủ, Nguyễn Du… là những thi sĩ thượng đẳng, những đại gia trong làng thơ. Nhưng bài Anh Vũ Châu của Lý bạch, bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, bài Khúc Giang của Ðỗ Phủ thất niêm và Ðộc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du cũng thất niêm :
Chưa ai làm thơ nhiều bằng Lý bạch, Thơ đối với ông là không khí. Ông xử dụng nó tự nhiên như hít thở khí trời.
Lý Bạch, tổ sư của thơ, người đời thường gọi ông là Trích Tiên, ông cũng có những bài thơ không chú trọng tới niêm luật :

Anh Vũ Châu

Anh Vũ lai quá Ngô giang thủy
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh
Anh Vũ tây phi lũng sơn khứ
Phương châu chi thụ hà thanh thanh
Yên khai lan điệp hương phong noãn
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh
Thiên khách thử thời đồ cực mục
Trường châu cô nguyệt hướng thùy minh

Dịch Nghĩa:

Chim Anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao !
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai

Dịch Thơ:

Bãi Anh Vũ

Sông Ngô anh vũ xưa qua đó
Anh vũ thành tên gọi đến giờ
Anh vũ về đây qua núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ !
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Ðợi ai trăng bãi luống bơ vơ !…

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Hay :

Nhãn tiền hữu ảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu

Hay là :

Ðộng Ðình Hồ tây thu nguyệt huy
Tiêu tương giang bắc tải hồng phi
Túy khách mãn tiền ca Bạch Tử
Bất tri sương lệ nhạn thu y

Và :

Cố nhân tây hồ Hoàng Hạc lâu
Yên ba tam nguyệt há Dương Châu

Những câu trích ra trên đây, thất niêm, thất luật lung tung ! Lý Bạch lại không biết luật ư ? Biết mà vẫn không sửa, không cần sửa, bởi nếu ông ta sửa, câu thơ sẽ mất hay !
Những câu thơ hay của Hàn Mặc Tử, của Quang Dũng của Thâm Tâm cũng cần có luật đâu ? Vậy thì niêm luật không cần thiết ư ? ố Không cần thiết thì đặt ra làm gì, nghiên cứu làm gì ?
Xin thưa : niêm luật cần lắm chứ ! Nó giúp người ta rất nhiều để làm những bài thơ “khả thủ”, những tay đại bút thì không cần. Họ chính là luật, họ tạo ra luật. Muốn sáng tạo đương nhiên phải thông thạo nó. Chưa biết mà tấp tểnh phá luật là một điều buồn cười. Người phá luật phải rất thông thạo luật, cũng như người giỏi võ phải thông thạo mọi thế võ, khi đã thạo võ, xuất chiêu là thành võ đâu cần phải câu nệ ? Không một võ sĩ nào khi lên đấu mới nghĩ đến những miếng võ mình cần xử dụng. Lầu thông rồi, nó biến thành những cử chỉ tự nhiên như hơi thở , đi đứng.

Bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, là một trong những bài thơ hay trong hàng trăm hàng vạn bài thơ Ðường . Hoàng Hạc lâu, hay đến nỗi nhà thơ như Lý Bạch, bước đến Lầu Hoàng Hạc thấy thơ của Thôi Hiệu đề trên vách, liền quăng bút, không dám đề thơ nữa . Giai thoại là thế, Lý Bạch là thi tiên của đời Ðường, là người uống một đấu rượu làm một nghìn bài thơ (Lý Bạch, đấu tửu thi bách thiên). Theo giáo sư Nguyễn Xuân Vinh thì ông làm gần hai vạn bài thơ.

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu như sau :

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Tản Ðà đã dịch và cho đến nay vẫn được coi là bài dịch hay nhất :

Lầu Hoàng Hạc

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Tản Ðà

Huệ Thu cũng có bài dịch :
(trong tập SCTÐ)

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Biết chăng Hoàng Hạc đây lầu trống trơn
Hạc bay rồi, đã bay luôn
Tầng cao mây trắng cứ vờn thiên thu
Hán Dương cây đứng gục đầu
Châu Anh bờ cỏ xanh màu nhớ thương
Sớm chiều nhắc mãi quê hương
Trên sông khói sóng giăng buồn trời ơi !

huệ thu

Và bài Khúc Giang của Ðỗ Phủ:

Triều hồi nhật nhật điển xuân y
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hy
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương tống mạc tương vi

Tản Ðà Dịch :

Sông Khúc

Khỏi bệ vua ra cố áo hoài
Bến sông say khướt, tối lần mai
Nợ tiền mua rượu đâu không thế ?
Sống bảy mươi năm đã mấy người ?
Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn
Chuồn chuồn rỡn nước lửng lơ chơi
Nhắn cho quang cảnh thường thay đổi
Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.

Bản dịch của Tản Ðà :
Câu thứ bảy thất niêm, chữ lưu phải là chữ trắc. Dĩ nhiên Ðỗ Phủ thừa biết như vậy. Ông thất niêm cố ý ! Hỏi tại sao ông lại cố ý thì lại là vấn đề khác.

Bài Ðộc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du cũng vậy :

Tây Hồ mai uyển tẩn thành khư
Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần lân tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?

Bài thơ viết theo luật bằng :

Tây Hồ mai uyển tẩn thành khư

Ðến câu thứ 7 tự nhiên tác giả chuyển qua luật trắc :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?

Trong làng thơ Quốc Âm, thơ thất niêm còn để lại cũng khá nhiều, thí dụ bài Vịnh Dế Duỗi của Tú Qui:

Kiến chẳng kiến voi chẳng voi
Ðời sanh dế duỗi cũng loi choi
Ngắn cánh lên trời không đủ sức
Có tay vạch đất cũng khoe tài
Mưa tuôn gió tạt lên cao ở
Lửa bỏng dầu sôi nhảy đến chơi
Quân tử có thương thời chớ phụ
Ðể cho bay nhảy thử mà coi

Bà Hồ Xuân Hương trong bài Ðèo Ba Dội câu đầu Hồ nữ sĩ đã phá luật:

Một đèo, một đèo, lại một đèo !
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm lum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Ðầm đìa lá liễu hạt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng cứ trèo

Trong bài Xướng họa với Chiêu Hổ :

Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay !

Hay trong bài Khóc Tổng Cóc :

Chàng cóc ơi ! Chàng Cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi !

Câu đầu của hai bài thơ Tứ Tuyệt mỗi câu chỉ có 6 chữ, theo luật vừa phá cách vừa thất niêm, không nhất tứ (theo niêm thơ tứ tuyệt : nhất tứ, nhị tam). Những phá cách của nữ sĩ họ Hồ khó ai bắt bẻ được, bởi thơ bà chữ nghĩa dùng quá hay và quá tài tình.

Những người còn quá câu nệ vào luật thơ thì nên nhớ câu này :

Tận tín thư bất như vô thư = tin hết vào sách thà đừng có sách còn hơn.

Học nhưng phải có sáng tạo nhưng muốn sáng tạo phải biết cho tường tận trước đã.
Bất kể cái gì cũng cần phải học, phải có nguyên tắc. Và cũng phải hiểu, chưa có một nguyên tắc nào là vẹn toàn ! Học như thế mới là học.

Như vậy những bài thơ thất niêm, thất luật còn được truyền tụng phần nhiều là của các bậc danh gia. Vậy thì: “Ðại gia văn chương bất câu niêm luật”ư ?
Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những võ sĩ khi thượng đài không còn phải nhẩm lại các đường quyền phải múa thế nào cho đúng, chân tấn thế nào cho vững! Xuất chiêu dĩ nhiên là có thế võ rồi.
Thiết tưởng sự thất niêm thất luật kia là cố tình chứ không phải sơ ý .

Rất nhiều bài thơ nổi tiếng ở nước ta của Hàn mặc Tử, của Quang Dũng … vừa thất niêm lại thất luật !( xin đọc phần phụ). Cho nên rõ ràng niêm luật chưa phải là thơ. Cứ câu nệ ở niêm luật chưa chừng thơ không còn là thơ nữa !

  • Phần phụ Thêm :

Tôi nhớ trước đây tôi có trả lời chị NTND về một câu thơ của tôi chị cho là sai luật, trong bài :

Nhớ Quê Hương

Quê Hương. Trời ! Thao thức không tên
Một tiếng rao quà mới cất lên
Ðà Lạt mây xưa mờ trước cửa
Trại Hầm mận ngọt lịm nhà bên
Chép thơ trong lớp lòng ngơ ngẩn
Cởi áo qua cầu nổi nhớ quên !
Một chút nắng vàng trên lộ vắng
Rưng rưng ngày ấy thác Prenn .

Câu đầu chị NTND muốn tôi sửa lại vì bị “trật niêm luật” – Nhưng tôi trả lời câu thơ đó tôi viết như thế vì muốn chuyển nhịp…

  • Nếu hiểu theo cách học của nhà trường lúc mới vỡ lòng về thơ thì câu ấy sai luật chứ không sai niêm. Muốn sai niêm phải sánh với câu dưới. Còn nếu muốn nói đã sai luật là kéo thêm niêm thì cũng không sao.
    Tôi xin kể ra đây một số thơ của những thi sĩ lớn của Việt Nam cũng như của Trung Hoa viết sai luật, cả niêm nữa (Nói đúng hơn là phá niêm luật).

Như trên, trong bài Khúc Giang , Ðỗ Phủ viết :

Truyền ngữ xuân quang cộng lưu chuyển
Trong câu này chữ lưu phải là thanh trắc

Trong bài Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu viết :

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Chữ thừa thất luật .

Thơ Việt Nam thì Hàn Mặc Tử viết :
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Chữ về thất luật.

Quang Dũng thì viết :
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chữ luông thất luật.

Trong bài Tống Biệt Hành, Thâm Tâm viết:
Ðưa người ta không đưa qua sông

Cả một câu bảy chữ đều là thanh bằng.

Trong bài Ðộc Tiểu Thanh Ký, Nguyễn Du viết :

Phong vận kỳ oan ngã tự cư

rồi hạ xuống hai câu kết:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như

như thế là thất niêm.
Thật ra, người ta làm thơ trước khi biết luật; Nói được Việt ngữ chẳng hạn trước khi học ngữ phạm Việt Nam. Luật không phải do người sáng chế ra mà chỉ do người khám phá ra luật . Vậy thì luật do đâu mà có ? Luật là quy tắc chung của muôn loài muôn vật : như nước chảy xuống chỗ trũng … Con người quan sát thiên nhiên, khám phá những quy luật của thiên nhiên, rồi quy củ hóa nó, điển chế nó để áp dụng vào thi ca, âm nhạc v… v…
Cái luật cốt tử của nó là luật điều hòa âm dương. Trong thơ, tiếng bằng là âm, tiếng trắc là dương. Mỗi câu thơ dù dài, dù ngắn, phải chia ra thành từng nhịp.
Người hơi có ý thức về thơ, đọc một câu thơ tất phải ngắt nhịp. Thường mỗi câu thơ chia ra làm ba nhịp.

Bây giờ hãy xin nói đến luật thơ Ðường Thi bát cú :

Mỗi bài có tám (8) câu, năm (5) vần, hoặc bốn (4) vần. Có hai thể : thể bằng và thể trắc.
Xin đơn cử một bài theo thể bằng :

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
v… v…

Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh.
Vậy thì chỉ có những chữ thứ 2, 4 , 6 phải theo luật bằng trắc như đã ấn định.
Luật ấy nếu viết tắt ra thì như thế này:

Thể bằng:
Chữ thứ Chữ thứ Chữ thứ
2 4 6

B T B
T B T
T B T
B T B
B T B
T B T
T B T
B T B

Thể Trắc :

Chữ thứ 2 Chữ thứ 4 Chữ thứ 6
T B T
B T B
B T B
T B T
T B T
B T B
B T B
T B T

Nhìn vào đó ta thấy, đếm theo hàng dọc :
B + TT + BB + TT + B

Vì bài thơ là thể bằng nên chữ thứ 2 của câu đầu là thanh bằng.
Nếu đếm theo hàng ngang thì :
B + T + B

Hễ giữa mà trắc, hai bên bằng là đúng luật. Còn đếm theo hàng dọc chữ thứ 2 của câu 1 + 8 giống nhau, chữ 2 của câu 2 + 3 giống nhau, chữ 2 của câu 4 + 5 giống nhau, chữ 2 của câu 6 + 7 giống nhau là đúng niêm.
Niêm luật ấy là chỉ dùng cho việc thi cử (để dễ có tiêu chuẩn mà chấm bài). Những bài thơ đúng luật nhất là những bài thơ của các vị đại khoa (các cụ Trạng, cụ Bảng, cụ Thám, cụ Nghè) khi làm để lưu niệm lúc ngồi ăn với vua. Những bài thơ ấy ngày nay có còn ai nhớ nữa đâu ! Nó chỉ đúng luật chứ chưa phải là thơ.
Những bài thơ mà tôi vừa nêu trên (như bài của Ðỗ Phủ là một bài luật thi hẳn hoi) mà vẫn thất niêm, thất luật. đâu có phải vì những người ấy không hiểu niêm luật.
Nếu chúng ta để ý nhận xét thì thấy thế này; từ tứ tuyệt đến song thất, đến luật thi, đến ca trù, đến thơ mới 8, 9 chữ.., tất cả chỉ có một luật, tất cả các luật đều giống nhau. Sở dĩ trong các sách giáo khoa người ta dạy thơ lục bát khác luật song thất v… v… để cho học trò dễ nhớ. Các thể thơ mà khác nhau là do nhịp thơ. Chính nhịp thơ (chữ cuối mỗi nhịp thơ là luật thơ, bắt buộc (nói bắt buộc là nói tương đối thôi) phải theo đúng bằng trắc còn tất cả tùy tiện muốn viết là bằng hay trắc cũng được. Ðây là tôi chỉ nói một cách sơ lược.

Vì thế trong câu thơ mà chị bảo là sai luật là tôi muốn chuyển nhịp câu thơ đang 2 + 2 + 3 thành 3 + 2 + 2 . Không phải là tôi bảo rằng có thể dùng thể thơ trộn lẫn song thất vào thể thơ thất ngôn. Ấy là tôi nhìn vào cái lý cuối cùng của luật : tạo ra quân bình thoải mái cho câu thơ. Mong sẽ còn lãnh thêm ý kiến của chị và các bạn thơ .

Ở trên tôi đã viết tất cả các thể thơ đều chung một luật : ấy là luật quân bình âm dương. Luật ấy là căn cứ ở những chữ cuối nhịp cửa mỗi câu thơ mà định. Chỉ có 3 chữ ở cuối các nhịp là chữ Luật nghĩa là phải viết đúng theo công thức T (nhịp 1) bằng (nhịp 2) T (nhịp 3) hoặc ngược lại: B (nhịp 1) Trắc (nhịp 2) B (nhịp 3) nghĩa là hễ chữ cuối ở nhịp thứ 2 là trắc thì chữ cuối của nhịp 1 và 3 phải bằng.

Tôi xin chứng minh :
Thể Lục Bát

Trăm năm (B) trong cõi (T) người ta (B)
Chữ tài (B) chữ mệnh (T) khéo là (B) ghét nhau (B)

Bởi câu 8 có 4 nhịp, 2 nhịp 3 và 4 cùng là bằng nên 2 chữ bằng 1 phải có dấu huyền (là) và một chữ không có dấu. Nhịp thơ của thơ lục bát là nhịp 2 – Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có luật lệ như câu :

Mai cốt cách (T) / tuyết tinh thần (B)
Câu thơ này nhịp 3 . Ðã vậy thì cuối nhịp 1 phải là trắc. Thơ lục bát có những biến thể :

Biến thể 1 :
ví dụ ta viết (đây chỉ là ví dụ):

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ mệnh khéo là ghét bỏ chữ duyên

Vần đáng lẽ ở chữ thứ 6 ở câu 2 thì ở đây lại gieo vào chữ thứ 4 . Khi ấy chữ cuối của các nhịp thơ sẽ đổi là nhịp 1 (chữ thứ 2) T, chữ thứ 4 (B), chữ thứ 6 (T) và chữ thứ cùng là bằng thì chữ vần phải có dấu huyền và chữ thứ 8 thì không .

Biến thể 2:
ví dụ :

Nước trong xanh lơ lửng cái con cá vàng
Cây ngô, bây giờ mà cành bích con chim phụng hoàng nó đậu cành trên .

Dù số chữ trong câu có dài hơn nhưng đọc lên câu trên vẫn có 3 nhịp và câu dưới có 4 nhịp . Ðó là 1 kiểu thơ của dân gian cho nên số chữ có thể linh động thêm bớt. Tuy nhịp thơ thì vẫn y nguyên . Nhịp thơ căn cứ vào đâu mà biết ? Thưa: – do linh tính. Ðọc lên là biết liền. Nếu đọc không đúng nhịp thì sẽ thấy trúc trắc .

Luật thơ song thất lục bát :
ví dụ :

Trải vách quế (T)gió vàng (B) hiu hắt (T)
Mảnh vũ y (B) lạnh ngắt (T) như đồng (B)
Oán chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má hồng

Luật thơ là : T (quế) B (vàng) T (hắt)
B (y) T (ngắt) B (đồng)
Chữ bằng ở cuối nhịp 1 không có dấu huyền thì chữ thứ 7 bắt buộc phải có. Ta nhìn rõ thì câu thơ theo đúng luật âm dương: giữa bằng thì hai bên trắc và ngược lại.

Thơ mới:
ví dụ :

Ðây là quán / tha hồ / muôn khách đến /
Ðây là bình / thu hợp / trí muôn hương /
Ðây là vườn / chim nhả hạt / mười phương
Hoa mật ngọt / chen giao / cùng trái độc /
Ðôi giếng mắt / đã chứa trời / vạn hộc /
(Xuân Diệu)

Nhịp của các câu thơ 8 chữ có thể là (theo các câu trên)
3 + 2 + 3
3 + 2 + 3
3 + 3 + 2
3 + 2 + 3
3 + 3 + 2
(nghĩa là có thể linh động)

Luật thơ : căn cứ vào các chữ cuối nhịp, ta có :

Câu 1 Quán (T) hồ (B) đến (T)
Câu 2 hình (B) hợp (T) hương (B)
Câu 3 vườn (B) hạt (T) phương (B)
Câu 4 ngọt (T) giao (B) độc (T)
câu 5 mắt (T) trời (B) hộc (T)

Nó đã đi vào luật ban đầu :
Giữa Bằng 2 bên trắc
Giữa Trắc 2 bên bằng

Hát nói:
Ví dụ :
Mới ngày nào / đã biết / cái chi chi
Mười lăm năm / thấm thoát / có ra gì /
Ngoảnh mặt lại / đã tới kỳ / tơ liễu .

Căn cứ vào những chữ cuối nhịp ta có :

nào (B) biết (T) chi (B)
năm ( B) thoát (T) gì (B)
lại (T) kỳ (B) liễu (T)

Cũng vẫn luật : giữa Trắc 2 bên Bằng và ngược lại câu 2, chữ cuối nhịp 3 cũng bằng nhưng không dấu .

Ðây là những hiểu biết thô thiển của tôi về phá cách trong luật thi , xin các quý vị cao minh cho thêm ý kiến để học hỏi thêm.

Huệ Thu
Ngày 10 tháng 3 năm 2008